Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-270 |
Đặt hàng | 20 tháng 1, 1941 |
Xưởng đóng tàu | Vegesacker Werft, Bremen |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 35 |
Đặt lườn | 15 tháng 10, 1941 |
Hạ thủy | 11 tháng 7, 1942 |
Nhập biên chế | 5 tháng 9, 1942 |
Tình trạng | Bị thủy phi cơ Short Sunderland Australia đánh chìm trong vịnh Biscay, 13 tháng 8, 1944[1] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 50 815 |
Chỉ huy: | |
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
1 tàu chiến tổn thất toàn bộ (1.370 tấn) |
U-270 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được sáu chuyến tuần tra và gây tổn thất toàn bộ cho một tàu chiến với tải trọng 1.370 tấn. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong Đại Tây Dương, U-270 bị một thủy phi cơ Short Sunderland của Australia đánh chìm trong vịnh Biscay vào ngày 13 tháng 8, 1944.
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-270 được đặt hàng vào ngày 20 tháng 1, 1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bremer-Vulkan-Vegesacker Werft ở Bremen vào ngày 15 tháng 10, 1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 11 tháng 7, 1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 5 tháng 9, 1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Paul-Fredrich Otto.[1]
Sau khi hoàn thành việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 8, U-270 được điều sang Chi hạm đội U-boat 6 từ ngày 1 tháng 4, 1943.[1]
U-270 khởi hành từ cảng Kiel vào ngày 23 tháng 3, 1943 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, tiến ra Bắc Hải, rồi băng qua khe GIUK giữa quần đảo Faroe và Iceland để hoạt động trong Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Nam Greenland. Chiếc tàu ngầm không đánh chìm được mục tiêu nào, và ba thủy thủ lại bị thương vào ngày 4 tháng 4 do thời tiết xấu,[5] trước khi nó kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng St. Nazaire bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 15 tháng 5.[3]
U-270 khởi hành từ Lorient lần cuối cùng vào ngày 10 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ bảy. Trong vịnh Biscay ba ngày sau đó, nó bị một thủy phi cơ Short Sunderland thuộc Liên đội 461 Australia thả mìn sâu đánh chìm ở vị trí về phía Tây La Rochelle, tại tọa độ 46°19′B 02°56′T / 46,317°B 2,933°T. Mười người đã thiệt mạng, và có 71 người khác sống sót được cứu vớt.[1][6][Ghi chú 1]
U-270 từng tham gia bảy bầy sói:
U-270 đã gây tổn thất toàn bộ cho một tàu chiến tải trọng 1.370 tấn:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 2] | Số phận[7] |
---|---|---|---|---|
20 tháng 9, 1943 | HMS Lagan | Hải quân Hoàng gia Anh | 1.370 | Tổn thất toàn bộ |