Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-237 |
Đặt hàng | 20 tháng 1, 1941 |
Xưởng đóng tàu | Germaniawerft, Kiel |
Kinh phí | 4.439.000 Reichsmark |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 667 |
Đặt lườn | 23 tháng 4, 1942 |
Hạ thủy | 17 tháng 12, 1942 |
Nhập biên chế | 30 tháng 1, 1943 |
Tình trạng | |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 49 758 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: | Không |
Chiến thắng: | Không |
U-237 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó chỉ thuần túy đảm nhiệm vai trò huấn luyện tại khu vực biển Baltic. Con tàu từng bị đánh chìm trong một cuộc không kích của Không lực 8 Hoa Kỳ xuống cảng Kiel vào tháng 5, 1943, nhưng được cho nổi trở lại và sửa chữa để tiếp tục hoạt động. Khi cuộc xung đột bước vào giai đoạn kết thúc, U-237 bị đánh chìm lần sau cùng do một cuộc không kích khác của Không lực 8 Hoa Kỳ xuống xưởng tàu Deutsche Werke ở Kiel vào ngày 4 tháng 4, 1945.
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[3] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[3]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[3]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[3]
U-237 được đặt hàng vào ngày 20 tháng 1, 1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Friedrich Krupp Germaniawerft tại Kiel vào ngày 23 tháng 4, 1942.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 17 tháng 12, 1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 31 tháng 1, 1943[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Hubert Nordheimer.[1]
Sau khi hoàn thành việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 5, U-237 chỉ thuần túy phục vụ như một tàu huấn luyện, lần lượt trong thành phần Chi hạm đội U-boat 23 từ ngày 8 tháng 10, 1943, và Chi hạm đội U-boat 31 từ ngày 1 tháng 3, 1945.[1]
U-237 bị đánh chìm tại cảng Kiel vào ngày 14 tháng 5, 1943 trong một cuộc không kích của Không lực 8 Không lực Lục quân Hoa Kỳ, nhưng không có tổn thất nhân mạng. Chiếc tàu ngầm được cho nổi trở lại vào ngày 26 tháng 5 và được sửa chữa rồi tiếp tục phục vụ trở lại từ ngày 8 tháng 10.[1] Khi cuộc xung đột bước vào giai đoạn kết thúc, U-237 lại bị đánh chìm một lần nữa do một cuộc không kích khác của Không lực 8 Hoa Kỳ xuống xưởng tàu Deutsche Werke ở Kiel vào ngày 4 tháng 4, 1945.[1]