U-276 (tàu ngầm Đức)

Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-276
Đặt hàng 10 tháng 4, 1941
Xưởng đóng tàu Vegesacker Werft, Bremen
Số hiệu xưởng đóng tàu 41
Đặt lườn 24 tháng 2, 1942
Hạ thủy 24 tháng 10, 1942
Nhập biên chế 9 tháng 12, 1942
Xuất biên chế 29 tháng 9, 1944
Tình trạng Bị đánh đắm tại Neustadt in Holstein, 3 tháng 5, 1945[1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [2]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [2]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [2]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [2]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [2]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [2]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [2]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [2]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [2]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [2]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[1][3]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 49 169
Chỉ huy:
  • Trung úy Jürgen Thimme
  • 9 tháng 12, 1942 – 19 tháng 10, 1943
  • Đại úy Rolf Borchers
  • 20 tháng 10, 1943 – 18 tháng 7, 1944
  • Đại úy Heinz Zwang
  • 19 tháng 7 – 29 tháng 9, 1944
Chiến dịch:
  • 3 chuyến tuần tra:
  • 1: 22 tháng 3 – 6 tháng 4, 1944
  • 2: 18 tháng 4 – 31 tháng 5, 1944
  • 3: 8 tháng 6 – 6 tháng 7, 1944
Chiến thắng: Không

U-276 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được ba chuyến tuần tra nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào, trước khi được cho xuất biên chế vào ngày 29 tháng 9, 1944 để hoạt động như một trạm phát điện nổi. U-276 bị hư hại nặng sau một đợt không kích xuống Neustadt in Holstein vào ngày 3 tháng 5, 1945, và bị đánh đắm cùng ngày hôm đó.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-276 được đặt hàng vào ngày 10 tháng 4, 1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bremer-Vulkan-Vegesacker WerftBremen vào ngày 24 tháng 2, 1942.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 24 tháng 10, 1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 9 tháng 12, 1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Jürgen Thimme.[1]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn thành việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 8, U-276 được điều sang Chi hạm đội U-boat 1 từ ngày 1 tháng 3, 1944, và sau đó cùng Chi hạm đội U-boat 31 từ ngày 1 tháng 7, 1944.[1]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi chuyển căn cứ hoạt động từ Kiel đến cảng Bergen, Na Uy, và sau đó đến Trondheim, Na Uy trong tháng 3, 1944, U-276 khởi hành từ Trondheim vào ngày 22 tháng 3 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Chiếc tàu ngầm hoạt động trong biển Na Uy trước khi quay trở lại Trondheim vào ngày 6 tháng 4.[5]

Chuyến tuần tra thứ hai

[sửa | sửa mã nguồn]

U-276 tiến hành chuyến tuần tra thứ hai từ ngày 18 tháng 4 đến ngày 2 tháng 5, cùng xuất phát và kết thúc tại Trondheim.[6] Trong chuyến đi này hai thành viên đã bị thương do một sự cố với pháo phòng không vào ngày 2 tháng 5.[1]

Trong biển Na Uy vào ngày 25 tháng 5, nó bất ngờ bị một máy bay ném bom B-24 Liberator thuộc Liên đội 59 Không quân Hoàng gia Anh tấn công, ném tổng cộng tám quả mìn sâu qua hai lượt; nhưng U-276 đã tránh không bị hư hư hại do các kíp nổ chưa mở khóa an toàn. Chiếc tàu ngầm kháng cự yếu ớt bằng pháo 20 mm khi khẩu pháo phòng không 37 mm của nó bị kẹt đạn, và phải lặn khẩn cấp để né tránh. Ba thành viên thủy thủ đoàn của U-276 bị thương sau vụ đụng độ này, và chiếc tàu ngầm phải đưa những người bị bị thương đến Trondheim vào ngày hôm sau 26 tháng 5.[1]

Chuyến tuần tra thứ ba

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi chuyển căn cứ hoạt động đến cảng Stavanger, Na Uy vào cuối tháng 5, U-276 khởi hành từ cảng này vào ngày 8 tháng 6 cho chuyến tuần tra thứ ba. Sau khi hoạt động trong Bắc Hải mà không đánh chìm được mục tiêu nào, nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở lại Stavanger vào ngày 25 tháng 6.[7] Chiếc tàu ngầm quay trở về cảng Kiel trong tháng 7.[3]

Số phận

[sửa | sửa mã nguồn]

U-276 được cho xuất biên chế tại Neustadt in Holstein, Schleswig-Holstein vào ngày 29 tháng 9, 1944 để hoạt động như một trạm phát điện nổi tại đây. Trong một đợt không kích của máy bay Đồng Minh xuống Neustadt vào ngày 3 tháng 5, 1945, chiếc tàu ngầm bị tấn công bằng rocket phóng từ bốn máy bay cường kích Hawker Typhoon thuộc Liên đội 175 Không quân Hoàng gia Anh. Bị hư hại nặng, U-276 bị đánh đắm cùng ngày hôm đó.[1][8]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-276”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2024.
  3. ^ a b Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-276”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2024.
  4. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  5. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-276 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2024.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-276 (second patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2024.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-276 (third patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2024.
  8. ^ Hofmann, Markus. “U 276”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2024.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-276”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 276”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2024.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Sự kiện sáp nhập Ukraine vào Nga năm 1654
Sự kiện sáp nhập Ukraine vào Nga năm 1654
Trong sự kiện Nga sáp nhập bán đảo Crimea, chúng ta thường hay nghe vụ Liên Xô cắt bán đảo Crimea cho Ukraine năm 1954
Ethereum, Cosmos, Polkadot và Solana, hệ sinh thái nhà phát triển của ai là hoạt động tích cực nhất?
Ethereum, Cosmos, Polkadot và Solana, hệ sinh thái nhà phát triển của ai là hoạt động tích cực nhất?
Làm thế nào các nền tảng công nghệ có thể đạt được và tăng giá trị của nó trong dài hạn?
Thuật toán A* - Thuật toán tìm đường đi ngắn nhất giữa hai điểm bất kì được Google Maps sử dụng
Thuật toán A* - Thuật toán tìm đường đi ngắn nhất giữa hai điểm bất kì được Google Maps sử dụng
Đây là thuật toán mình được học và tìm hiểu trong môn Nhập môn trí tuệ nhân tạo, mình thấy thuật toán này được áp dụng trong thực tế rất nhiều
Ứng dụng Doublicat cho phép bạn hoán đổi khuôn mặt mình với diễn viên, nhân vật nổi tiếng trong ảnh GIF
Ứng dụng Doublicat cho phép bạn hoán đổi khuôn mặt mình với diễn viên, nhân vật nổi tiếng trong ảnh GIF
Ứng dụng này có tên là Doublicat, sử dụng công nghệ tương tự như Deepfakes mang tên RefaceAI để hoán đổi khuôn mặt của bạn trong GIF