Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-80 |
Đặt hàng | 25 tháng 1, 1939 |
Xưởng đóng tàu | Bremer Vulkan, Bremen-Vegesack |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 8 [1] |
Đặt lườn | 17 tháng 4, 1940 |
Hạ thủy | 11 tháng 2, 1941 |
Nhập biên chế | 8 tháng 4, 1941 [1] |
Tình trạng | Đắm do tai nạn trong khi lặn tại biển Baltic, 28 tháng 11, 1944[1] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 37 498 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: | Không |
Chiến thắng: | Không |
U-80 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó không tham gia bất kỳ hoạt động tác chiến nào, nhưng chỉ hoạt động huấn luyện trong thành phần các Chi hạm đội U-boat 1, 26, 24, 23 và 21. U-80 bị mất trong một tai nạn trong khi lặn ngoài khơi Pillau, Đông Phổ vào ngày 28 tháng 11, 1944.
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-80 được đặt hàng vào ngày 25 tháng 1, 1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bremer Vulkan-Vegesacker Werft tại Bremen-Vegesack vào ngày 17 tháng 4, 1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 11 tháng 2, 1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 8 tháng 4, 1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Georg Staats.[1]
Sau khi nhập biên chế, I-80 đã không tham gia bất kỳ hoạt động tác chiến nào. Nó chỉ thuần túy hoạt động huấn luyện trong thành phần các Chi hạm đội U-boat 1, 26, 24, 23 và 21.[1]
Chiếc tàu ngầm bị mất do tai nạn trong khi lặn trong biển Baltic về phía Tây cảng Pillau, Đông Phổ (nay là Baltiysk thuộc tỉnh Kaliningrad, Liên Bang Nga), tại tọa độ 54°40′B 19°30′Đ / 54,667°B 19,5°Đ, vào ngày 28 tháng 11, 194ô.[1] Toàn bộ 50 người có mặt trên tàu đã tử nạn.[1]