U-133 (tàu ngầm Đức) (1941)

Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-133
Đặt hàng 7 tháng 8, 1939
Xưởng đóng tàu Vegesacker Werft GmbH, Bremen-Vegesack
Kinh phí 4.760.000 Reichsmark
Số hiệu xưởng đóng tàu 12
Đặt lườn 21 tháng 8, 1940
Hạ thủy 28 tháng 4, 1941
Nhập biên chế 5 tháng 7, 1941
Tình trạng Đắm do trúng thủy lôi tại đảo Aegina, Hy Lạp, 14 tháng 3, 1942[1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [2]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [2]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [2]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [2]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [2]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [2]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [2]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [2]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [2]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [2]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[1][3]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 43 319
Chỉ huy:
  • Đại úy Hermann Hesse
  • 5 tháng 7, 1941 – 1 tháng 3, 1942
  • Đại úy Eberhard Mohr
  • 2 – 14 tháng 3, 1942
Chiến dịch:
  • 3 chuyến tuần tra:
  • 1: 22 tháng 10 – 26 tháng 11, 1941
  • 2: 16–26 & 28–29 tháng 12, 1941 & 1–22 tháng 1, 1942
  • 3: 14 tháng 3, 1942
Chiến thắng: 1 tàu chiến bị đánh chìm
(1,920 tấn)

U-133 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được ba chuyến tuần tra và đánh chìm được một chiến 1.920 tấn. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong Địa Trung Hải, U-133 đắm do trúng thủy lôi ngoài khơi đảo Aegina, Hy Lạp vào ngày 14 tháng 3, 1942.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel MAN M 6 V 40/46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Brown, Boveri & Cie GG UB 720/8 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-133 được đặt hàng vào ngày 7 tháng 8, 1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Vegesacker Werft tại Bremen-Vegesack vào ngày 21 tháng 8, 1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 4, 1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 5 tháng 7, 1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Hermann Hesse.[1]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

U-133 khởi hành từ Kiel vào ngày 22 tháng 10 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh,[3] băng qua khe GIUK giữa các quần đảo FaroeShetland để đi đến hoạt động tại khu vực Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Nam Greenland. Nó không đắnh chìm được mục tiêu nào, và kết thúc chuyến tuần tra khi đi đến cảng St. Nazaire bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp vào ngày 26 tháng 11.[1][5]

Chuyến tuần tra thứ hai

[sửa | sửa mã nguồn]

Xuất phát từ cảng St. Nazaire vào ngày 16 tháng 12, 1941, U-133 băng qua eo biển Gibraltar được Hải quân Anh canh phòng dày đặc để chuyển sang hoạt động tại khu vực Địa Trung Hải, và đi đến cảng Messina trên đảo Sicilia, Ý vào ngày 26 tháng 12.[3] Chiếc tàu ngầm khởi hành từ Messina vào ngày 1 tháng 1, 1942, cho chuyến tuần tra thứ hai tại khu vực Đông Địa Trung Hải ngoài khơi LibyaAi Cập. Tại đây vào ngày 17 tháng 1 nó tấn công Đoàn tàu MW 8B và đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu khu trục Anh HMS Gurkha,[6]rồi kết thúc chuyến tuần tra và đi đến đảo Salamis, Hy Lạp vào ngày 22 tháng 1.[1][7]

Chuyến tuần tra thứ ba - Bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

U-133 xuất phát từ Salamis lúc 17 giờ 00 ngày 14 tháng 3, 1942 cho chuyến tuần tra thứ ba, cũng là chuyến cuối cùng. Chỉ hai giờ sau đó, chiếc tàu ngầm va phải thủy lôi ngoài khơi đảo Aegina nên vỡ làm đôi và đắm hầu như ngay lập tức tại tọa độ 37°50′B 23°35′Đ / 37,833°B 23,583°Đ / 37.833; 23.583; khiến toàn bộ 45 thành viên thủy thủ đoàn đều thiệt mạng.[1] Theo bộ chỉ huy Chi hạm đội Tàu ngầm 23, U-133 đã đi lệch khỏi tuyến luồng được chỉ định nên lọt vào một bãi mìn phòng thủ do chính phía Đức rải.[1]

Tóm tắt chiến công

[sửa | sửa mã nguồn]

U-133 đã đánh chìm được một tàu chiến tải trọng 1.920 tấn:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[8]
17 tháng 1, 1942 HMS Gurkha  Hải quân Hoàng gia Anh 1.920 Bị đánh chìm

Khám phá xác tàu đắm

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1986, các thợ lặn chuyên nghiệp Efstáthios "Státhis" Baramátis và Theófilos Klímis tình cờ khám phá một xác tàu đắm tại độ sâu 74 m (243 ft), và được nhận diện là một tàu ngầm Đức. Đến giữa thập niên 1990, xác tàu được các thợ lặn Hy Lạp xác định là U-133.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-133”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2024.
  3. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-133”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2024.
  4. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  5. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-133 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “HMS Gurkha (G63) - British Desttroyer”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-133 (second patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-133”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2024.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN 0394588398.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Galon, Dimitri (2021). “The U-133 / The Life and Death of a Historic German Submarine”. QUEST Magazine. High Springs, Florida: Global Underwater Explorers. 21 (4).
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File. Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-133”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 133”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2024.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Đây là bản dịch lời của bài [Polumnia Omnia], cũng là bản nhạc nền chủ đạo cho giai đoạn 2 của Boss "Shouki no Kami, Kẻ Hoang Đàng".
5 lọ kem chống nắng ngăn ánh sáng xanh
5 lọ kem chống nắng ngăn ánh sáng xanh
Bên cạnh tia UV, bác sĩ Kenneth Howe tại New York cảnh báo rằng ánh sáng xanh từ các thiết bị điện tử như điện thoại, máy tính, TV cũng góp phần gây lão hóa da
Cách chúng tôi lần ra mắt sản phẩm trên Product hunt và xếp hạng Top #1 ngày
Cách chúng tôi lần ra mắt sản phẩm trên Product hunt và xếp hạng Top #1 ngày
Đây là lần đầu tiên mình quảng bá một sản phẩm công nghệ trên Product Hunt.
Nhân vật Tira - Thủ Lĩnh hội sát thủ Ijaniya trong Overlord
Nhân vật Tira - Thủ Lĩnh hội sát thủ Ijaniya trong Overlord
Tira chị em sinh 3 của Tina Tia , khác vs 2 chị em bị rung động bởi người khác thì Tira luôn giữ vững lập trường và trung thành tuyệt đối đối vs tổ chức sát thủ của mình