U-262 (tàu ngầm Đức)

Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-262
Đặt hàng 23 tháng 12, 1939
Xưởng đóng tàu Vegesacker Werft, Bremen
Số hiệu xưởng đóng tàu 27
Đặt lườn 29 tháng 5, 1941
Hạ thủy 10 tháng 3, 1942
Nhập biên chế 15 tháng 4, 1942
Xuất biên chế 2 tháng 4, 1945 [1]
Xóa đăng bạ 2 tháng 4, 1945 [1]
Tình trạng
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [2]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [2]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [2]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [2]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [2]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [2]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [2]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [2]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [2]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [2]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[1][3]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 45 835
Chỉ huy:
  • Đại úy Günther Schiebusch
  • 15 tháng 4 – 26 tháng 10, 1942
  • Trung úy Siegfried Atzinger
  • tháng 9 – tháng 10, 1942
  • Đại úy Heinz Franke
  • 26 tháng 10, 1942 – 25 tháng 1, 1944
  • Trung úy. Helmut Wieduwilt
  • 25 tháng 1 – 24 tháng 11, 1944
  • Đại úy Karl-Heinz Laudahn
  • 25 tháng 11, 1944 – 2 tháng 4, 1945
Chiến dịch:
  • 10 chuyến tuần tra:
  • 1: 24 – 28 tháng 9, 1942
  • 2: 3 – 9 tháng 10, 1942
  • 3: 5 tháng 11 – 9 tháng 12, 1942
  • 4: 16 tháng 1 – 15 tháng 2, 1943
  • 5: 27 tháng 3 – 25 tháng 5, 1943
  • 6: 24 tháng 7 – 2 tháng 9, 1943
  • 7: 14 tháng 10 – 7 tháng 12, 1943
  • 8: 3 tháng 2 – 29 tháng 4, 1944
  • 9: 6 – 15 tháng 6, 1944
  • 10: 23 tháng 8 – 5 tháng 11, 1944
Chiến thắng:
  • 3 tàu buôn bị đánh chìm
    (13.010 GRT)
  • 1 tàu chiến bị đánh chìm
    (925 tấn)

U-262 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được tổng cộng mười chuyến tuần tra, đánh chìm ba tàu buôn với tổng tải trọng 13.010 GRT cùng một tàu chiến tải trọng 925 tấn. U-262 bị hư hại do không kích tại Pháp, rồi tiếp tục bị hư hại nặng do không kích tại cảng Gotenhafen vào tháng 12, 1944, nên được cho xuất biên chế vào tháng 4, 1945 và tháo dỡ sau chiến tranh vào năm 1947.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-262 được đặt hàng vào ngày 23 tháng 12, 1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bremer-Vulkan-Vegesacker WerftBremen vào ngày 29 tháng 5, 1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 10 tháng 3, 1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 15 tháng 4, 1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Günther Schiebusch.[1]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ nhất và thứ hai

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi chuyển căn cứ hoạt động từ Kiel, Đức đến Bergen, Na Uy vào đầu tháng 9, 1942, U-262 khởi hành từ cảng này vào ngày 24 tháng 9 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Trong biển Na Uy về phía Tây Bergen chỉ hai ngày sau đó, chiếc tàu ngầm bị hai máy bay ném bom Lockheed Hudson của Không quân Hoàng gia Anh tấn công, với tám quả mìn sâu được thả xuống. Những hư hại đã khiến U-262 phải kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Bergen vào ngày 28 tháng 9.[5]

Sau khi được sửa chữa, U-262 tiến hành chuyến tuần tra thứ hai từ ngày 3 đến ngày 9 tháng 10. Nó xuất phát từ Bergen và hoạt động trong biển Na Uy, rồi đi đến cảng Narvik, Na Uy.[6]

Chuyến tuần tra thứ ba

[sửa | sửa mã nguồn]

Dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng mới, Trung úy Hải quân Heinz Franke, U-262 xuất phát từ Narvik vào ngày 5 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ ba. Nó thoạt tiên hướng lên phía Bắc để hoạt động dọc bờ biển phía Đông Greenland, rồi băng qua eo biển Đan Mạch giữa Iceland và Greenland để hoạt động trong Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Newfoundland, Canada.[7]

Tại đây vào ngày 18 tháng 11, khi hoạt động trong thành phần bầy sói Kreuzotter, U-262 đã tấn công Đoàn tàu ONS 144 với một loạt ba quả ngư lôi, và một quả đã đánh trúng chiếc HNoMS Montbretia. Chiếc tàu corvette Na Uy bị hư hại nặng đến mức hạm trưởng phải ra lệnh bỏ tàu, và một quả ngư lôi khác từ U-262 đúng đích đã khiến Montbretia vỡ làm đôi và đắm.[8]

Đến ngày 26 tháng 11, U-262 tấn công tàu buôn Anh Ocean Crusader 7.178 GRT vốn bị phân tán khỏi Đoàn tàu HX 216, khiến mục tiêu đắm ở vị trí về phía Đông Bắc St. John's, Newfoundland.[9] Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng La Pallice, La Rochelle bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 9 tháng 12.[3] La Pallice trở thành căn cứ hoạt động chủ lực của chiếc tàu ngầm trong suốt thời gian còn lại của quãng đời hoạt động.

Chuyến tuần tra thứ tư

[sửa | sửa mã nguồn]

U-262 khởi hành từ La Pallice vào ngày 16 tháng 1, 1943 cho chuyến tuần tra thứ tư để hoạt động tại khu vực giữa Bắc Đại Tây Dương.[10] Vào ngày 6 tháng 2, nó phóng một loạt năm quả ngư lôi tấn công, đánh chìm tàu chở hàng Ba Lan Zagloba 2.864 GRT, vốn bị phân tán khỏi Đoàn tày SC 118, ở vị trí khoảng 600 nmi (1.100 km) về phía Đông Nam mũi Farewell, Greenland.[11] Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về La Pallice vào ngày 15 tháng 2.[3]

Chuyến tuần tra thứ năm

[sửa | sửa mã nguồn]

Lên đường vào ngày 27 tháng 3 cho chuyến tuần tra thứ năm, U-262 băng qua Đại Tây Dương đến đảo Hoàng tử Edward, Canada để di tản các tù binh chiến tranh Đức đào thoát khỏi trại tù binh trong Chiến dịch Elster. Vào ngày 15 tháng 4, nó tiếp cận Đoàn tàu HX 233, nhưng bị các tàu hộ tống của đoàn tàu vận tải phát hiện và tấn công bằng mìn sâu và hải pháo, buộc chiếc tàu ngầm phải từ bỏ ý định tấn công. U-262 đi đến ngoài khơi đảo Hoàng tử Edward, nhưng không có tù binh nào xuất hiện tại điểm hẹn. Chiếc tàu ngầm quay trở về căn cứ La Pallice vào ngày 25 tháng 5.[12]

Chuyến tuần tra thứ sáu

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hạm trưởng con tàu Heinz Franke được thăng lên hàm Đại úy Hải quân, U-262 lại xuất phát từ La Pallice vào ngày 24 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ sáu để tiếp tục hoạt động tại khu vực giữa Bắc Đại Tây Dương. Tại đây vào ngày 8 tháng 8, nó chờ đợi đến phiên mình trong khi tàu U-boat U-664 đang tiếp nhiên liệu cho U-760, khi bị một tốp máy bay ném bom-ngư lôi Grumman TBF Avengermáy bay tiêm kích Grumman F4F Wildcat xuất phát từ tàu sân bay hô tống USS Card phát hiện và tấn công. Chiếc Avenger bị hỏa lực phòng không bắn rơi, nhưng chỉ sau khi nó thả hai quả mìn sâu tấn công, gây hư hại đáng kể cho U-262. Chiếc Wildcat cũng bị bắn rơi, nhưng hư hại đã buộc U-262 phải hủy bỏ chuyến tuần tra, và quay trở về La Pallice vào ngày 2 tháng 9.[13]

Chuyến tuần tra thứ bảy

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ bảy của U-262 khởi đầu từ ngày 14 tháng 10, khi nó tiến ra Đại Tây Dương để hoạt đồng về phía Tây vịnh Biscay và Bồ Đào Nha, và đã tham gia tấn công ba đoàn tàu vận tải Đồng Minh. Vào ngày 31 tháng 10, nó tấn công Đoàn tàu SL 138/MKS 28 và đánh chìm tàu buôn Na Uy Hallfried 2.968 GRT.[14] Đại úy Franke được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Sắt Hiệp sĩ trong trận này do đã khéo léo theo dõi và kiên quyết tấn công mục tiêu. U-262 quay trở về La Pallice vào ngày 7 tháng 12.[15]

Chuyến tuần tra thứ tám

[sửa | sửa mã nguồn]

Dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng mới, Trung úy Hải quân Helmut Wieduwilt, U-262 khởi hành từ La Pallice vào ngày 3 tháng 2, 1944 cho chuyến tuần tra thứ tám. Nó hoạt động trong Bắc Đại Tây Dương về phía Tây Nam Iceland, và kết thúc vào ngày 29 tháng 4.[16]

Chuyến tuần tra thứ chín

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong bối cảnh lực lượng Đồng Minh bắt đầu đổ bộ lên Normandy, chuyến tuần tra thứ chín của U-262 trong vịnh Biscay chỉ kéo dài mười ngày, từ ngày 6 đến ngày 15 tháng 6.[17]

Sau khi quay trở về La Pallice, chiếc tàu ngầm được trang bị ống hơi nhằm cải thiện khả năng hoạt động ngầm dưới nước.[1] Tại cảng La Pallice vào ngày 18 tháng 8, một đợt không kích của đối phương đã khiến ba thủy thủ tử trận cùng một người bị thương.[1]

Chuyến tuần tra thứ mười

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi các cảng dọc bờ biển Đại Tây Dương của Pháp có nguy cơ bị phía Đồng Minh tái chiếm, U-262 rời La Pallice vào ngày 23 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ mười giữa Bắc Đại Tây Dương về phía Nam Iceland. Sau đó nó băng ngược qua khe GIUK giữa Iceland và quần đảo Faroe để quay trở lại Bắc Hải, và về đến cảng Flensburg, Đức vào ngày 5 tháng 11.[18]

Bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Gotenhafen (nay là Gdynia thuộc Ba Lan) vào ngày 19 tháng 12, 1944, U-262 tiếp tục bị hư hại nặng do một cuộc không kích của Liên Xô.[1] Nó được kéo đến Kiel và được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 2 tháng 4, 1945. Sau chiến tranh xác tàu được tháo dỡ vào năm 1947.[1]

"Bầy sói" tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

U-262 từng tham gia chín bầy sói:

  • Kreuzotter (15 - 22 tháng 11, 1942)
  • Drachen (22 - 26 tháng 11, 1942)
  • Landsknecht (19 - 28 tháng 1, 1943)
  • Pfeil (1 - 7 tháng 2, 1943)
  • Không tên (15 - 18 tháng 4, 1943)
  • Schill (25 tháng 10 - 16 tháng 11, 1943)
  • Schill 1 (16 - 22 tháng 11, 1943)
  • Weddigen (22 - 29 tháng 11, 1943)
  • Preussen (22 tháng 2 - 22 tháng 3, 1944)

Tóm tắt chiến công

[sửa | sửa mã nguồn]

U-262 đã đánh chìm được ba tàu buôn tổng tải trọng 13.010 GRT và một tàu chiến tải trọng 925 tấn:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[19]
18 tháng 11, 1942 HNoMS Montbretia  Hải quân Hoàng gia Na Uy 925 Bị đánh chìm
26 tháng 11, 1942 Ocean Crusader  United Kingdom 7.178 Bị đánh chìm
6 tháng 2, 1943 Zagloba  Poland 2.864 Bị đánh chìm
31 tháng 10, 1943 Hallfried  Norway 2.968 Bị đánh chìm

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-262”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
  3. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-262”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
  4. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  5. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-262 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-262 (second patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-262 (third patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “HNoMS Montbretia (K 208) - Norwegian corvette”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  9. ^ Helgason, Guðmundur. “Ocean Crusader - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-262 (fourth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  11. ^ Helgason, Guðmundur. “Zagloba - Polish Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  12. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-262 (fifth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  13. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-262 (sixth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  14. ^ Helgason, Guðmundur. “Hallfried - Norwegian Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  15. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-262 (seventh patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  16. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-262 (eighth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  17. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-262 (ninth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  18. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-262 (tenth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  19. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-262”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File. Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-262”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 262”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Innate personality - bài test tính cách bẩm sinh nhất định phải thử
Innate personality - bài test tính cách bẩm sinh nhất định phải thử
Bài test Innate personality được tạo ra bởi viện triển lãm và thiết kế Đài Loan đang trở thành tâm điểm thu hút giới trẻ Châu Á, Hoa Kỳ và cả Châu Âu
[Review sách] Thành bại nhờ giao tiếp | Sách Crucical Conversation
[Review sách] Thành bại nhờ giao tiếp | Sách Crucical Conversation
Hãy tưởng tượng giao tiếp như một trò chơi chuyền bóng, mục đích của bạn là chuyền cho đối phương theo cách mà đối phương có thể dễ dàng đón nhận
Thông tin nhân vật Dark King: Silvers Rayleigh
Thông tin nhân vật Dark King: Silvers Rayleigh
Silvers Rayleigh có biệt danh là '' Vua Bóng Tối '' . Ông là Thuyền Viên Đầu Tiên Của Vua Hải Tặc Roger
Hướng dẫn lấy thành tựu Xạ thủ đạn ma - Genshin Impact
Hướng dẫn lấy thành tựu Xạ thủ đạn ma - Genshin Impact
trong bài viết dưới đây mình sẽ hướng các bạn lấy thành tựu Xạ thủ đạn ma