Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-97 |
Đặt hàng | 30 tháng 5, 1938 |
Xưởng đóng tàu | Friedrich Krupp Germaniawerft, Kiel |
Kinh phí | 4.439.000 Reichsmark |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 602 |
Đặt lườn | 27 tháng 9, 1939 |
Hạ thủy | 15 tháng 8, 1940 |
Nhập biên chế | 28 tháng 9, 1940 |
Tình trạng | Bị máy bay Không quân Hoàng gia Australia đánh chìm trong Địa Trung Hải, 16 tháng 6, 1943[1] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 19 988 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
U-97 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực hiện được tổng cộng mười ba chuyến tuần tra, đánh chìm được 15 tàu buôn có tổng tải trọng 64.404 GRT và một tàu chiến phụ trợ tải trọng 6.833 GRT, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong Địa Trung Hải, U-97 bị một máy bay tuần tra Lockheed Hudson thuộc Liên đội 459 Không quân Hoàng gia Australia đánh chìm ngoài khơi Haifa, Palestine vào ngày 16 tháng 6, 1943.
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-97 được đặt hàng vào ngày 30 tháng 5, 1938,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Friedrich Krupp Germaniawerft tại Kiel vào ngày 27 tháng 9, 1939.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 8, 1940,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 28 tháng 9, 1940[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Udo Heilmann.[1]
U-97 khởi hành từ căn cứ Pola vào ngày 5 tháng 6 cho chuyến tuần tra thứ mười ba, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động tại khu vực Đông Địa Trung Hải ngoài khơi Palestine.[3][1] Vào ngày 12 tháng 6, nó đã đánh chìm tàu buôn Hà Lan Palima (1.179 tấn) ở vị trí 30 nmi (56 km) về phía Tây Nam Beirut, tại tọa độ 33°36′B 35°15′Đ / 33,6°B 35,25°Đ.[5] Chỉ ba ngày sau đó, nó tiếp tục đánh chìm chiếc tàu buôn Anh Athelmonarch (8.995 tấn) ở vị trí về phía Tây Haifa, tại tọa độ 32°20′B 34°39′Đ / 32,333°B 34,65°Đ.[6]
Vào ngày 16 tháng 6, U-97 bị một máy bay tuần tra Lockheed Hudson thuộc Liên đội 459 Không quân Hoàng gia Australia phát hiện ngoài khơi Haifa.[1] Chiếc Hudson đã thả mìn sâu tấn công, đánh chìm chiếc tàu ngầm tại tọa độ 33°00′B 34°00′Đ / 33°B 34°Đ.[1] 27 người trong số thành viên thủy thủ đoàn của U-97 đã tử trận, và có 21 người sống sót được cứu vớt và bị bắt làm tù binh chiến tranh.[1]
U-97 từng tham gia hai bầy sói:
U-97 đã đánh chìm được 15 tàu buôn có tổng tải trọng 64.404 GRT và một tàu chiến phụ trợ tải trọng 6.833 GRT, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[7] |
---|---|---|---|---|
24 tháng 2, 1941 | British Gunner | United Kingdom | 6.894 | Bị đánh chìm |
24 tháng 2, 1941 | G.C. Brøvig | Norway | 9.718 | Bị hư hại |
24 tháng 2, 1941 | Johnathon Holt | United Kingdom | 4.973 | Bị đánh chìm |
24 tháng 2, 1941 | Mansepool | United Kingdom | 4.894 | Bị đánh chìm |
24 tháng 3, 1941 | Chama | United Kingdom | 8.077 | Bị đánh chìm |
24 tháng 3, 1941 | Hørda | Norway | 4.301 | Bị đánh chìm |
4 tháng 4, 1941 | Conus | United Kingdom | 8.132 | Bị đánh chìm |
6 tháng 5, 1941 | HMS Camito | Hải quân Hoàng gia Anh | 6.833 | Bị đánh chìm |
6 tháng 5, 1941 | Sangro | Italy | 6.466 | Bị đánh chìm |
8 tháng 5, 1941 | Ramilles | United Kingdom | 4.553 | Bị đánh chìm |
17 tháng 10, 1941 | Pass of Balmaha | United Kingdom | 758 | Bị đánh chìm |
17 tháng 10, 1941 | Samos | Greece | 1.208 | Bị đánh chìm |
28 tháng 6, 1942 | Memas | Greece | 1.755 | Bị đánh chìm |
28 tháng 6, 1942 | Zealand | United Kingdom | 1.433 | Bị đánh chìm |
1 tháng 7, 1942 | Marilyse Moller | United Kingdom | 786 | Bị đánh chìm |
12 tháng 6, 1943 | Palima | Netherlands | 1.179 | Bị đánh chìm |
15 tháng 6, 1943 | Athelmonarch | United Kingdom | 8.995 | Bị đánh chìm |