U-271 (tàu ngầm Đức)

Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-271
Đặt hàng 20 tháng 1, 1941
Xưởng đóng tàu Vegesacker Werft, Bremen
Số hiệu xưởng đóng tàu 36
Đặt lườn 21 tháng 10, 1941
Hạ thủy 29 tháng 7, 1942
Nhập biên chế 23 tháng 9, 1942
Tình trạng Bị máy bay tuần tra PB4Y-1 Liberator Hải quân Hoa Kỳ đánh chìm trong Đại Tây Dương, 28 tháng 1, 1944[1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [2]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [2]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [2]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [2]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [2]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [2]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [2]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [2]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [2]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [2]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[1][3]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 49 368
Chỉ huy:
  • Đại úy Curt Barleben
  • 23 tháng 9, 1942 – 28 tháng 1, 1944
Chiến dịch:
  • 3 chuyến tuần tra:
  • 1: 29 tháng 5 – 16 tháng 7, 1943
  • 2: 2 tháng 10 – 3 tháng 11, 1943
  • 3: 12 – 28 tháng 1, 1944
Chiến thắng: Không

U-271 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được ba chuyến tuần tra nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong Đại Tây Dương, U-271 bị một máy bay tuần tra PB4Y-1 Liberator Hải quân Hoa Kỳ đánh chìm về phía Tây Ireland vào ngày 28 tháng 1, 1944.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-271 được đặt hàng vào ngày 20 tháng 1, 1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bremer-Vulkan-Vegesacker WerftBremen vào ngày 21 tháng 10, 1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 29 tháng 7, 1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 23 tháng 9, 1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Curt Barleben.[1]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn thành việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 8, U-271 được điều sang Chi hạm đội U-boat 1 từ ngày 1 tháng 6, 1943.[1]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

U-271 khởi hành từ cảng Lorient bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp bị Đức chiếm đóng vào ngày 29 tháng 5, 1943 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, để hoạt động trong Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Nam Greenland.[5] Ở vị trí về phía Đông Nam mũi Farewell, Greenland, vào ngày 24 tháng 6, nó bị một máy bay ném bom PB4Y-1 Liberator thuộc Liên đội Tuần tra Ném bom VPB-103 Hải quân Hoa Kỳ phát hiện và tiếp cận ở khoảng cách 800 m (870 yd) để thả bốn quả mìn sâu từ phía đuôi tàu . U-271 bẻ lái gắt sang mạn trái để né tránh đồng thời chống trả bằng pháo phòng không, bắn rơi chiếc Liberator cách con tàu 1 mi (1.600 m). Mìn sâu đã gây một số hư hại cho chiếc tàu ngầm, bao gồm ắc-quy, máy nén... nhưng chiếc tàu ngầm đã tự sửa chữa các hư hại để tiếp tục tuần tra.[1] Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về cảng Lorient vào ngày 16 tháng 7.[3]

Chuyến tuần tra thứ hai

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi chuyển căn cứ hoạt động từ Lorient đến cảng Brest cùng tại bờ biển Đại Tây Dương của Pháp vào giữa tháng 9, U-271 xuất phát từ cảng này vào ngày 2 tháng 10 để hoạt động trong Đại Tây Dương về phía Tây Nam Ireland.[6] Đang khi hoạt động như một tàu ngầm phòng không, vào ngày 21 tháng 10, nó bị hai máy bay ném bom-ngư lôi TBM Avenger xuất phát từ tàu sân bay hộ tống tấn công, khiến một thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng.[1] Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Brest vào ngày 3 tháng 11.[3]

Chuyến tuần tra thứ ba - Bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

U-271 khởi hành từ cảng Brest vào ngày 21 tháng 1, 1944 cho chuyến tuần tra thứ ba, cũng là chuyến cuối cùng, để tiếp tục hoạt động tại Bắc Đại Tây Dương.[7] Vào ngày 28 tháng 1, nó bị một máy bay tuần tra PB4Y-1 Liberator thuộc Liên đội Tuần tra Ném bom VPB-103 Hải quân Hoa Kỳ phát hiện và tấn công bằng mìn sâu. U-271 bị đánh chìm ở vị trí về phía Tây Ireland tại tọa độ 53°15′B 15°52′T / 53,25°B 15,867°T / 53.250; -15.867.[1] Toàn bộ 41 thành viên thủy thủ đoàn của U-271 đều tử trận.[1]

"Bầy sói" tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

U-271 từng tham gia hai bầy sói:

  • Rügen (21 – 26 tháng 1, 1944)
  • Hinein (26 – 28 tháng 1, 1944)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k l Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-271”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2024.
  3. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-271”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2024.
  4. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  5. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-271 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2024.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-271 (second patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2024.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-271 (third patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2024.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-271”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 271”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2024.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nên tìm hiểu những khía cạnh nào của người ấy trước khi tiến tới hôn nhân?
Nên tìm hiểu những khía cạnh nào của người ấy trước khi tiến tới hôn nhân?
Sự hiểu biết của mỗi người là khác nhau, theo như góc nhìn của tôi, hôn nhân có rất nhiều kiểu, thế nhưng một cuộc hôn nhân làm cho người trong cuộc cảm thấy thoải mái, nhất định cần phải có tình yêu.
Gu âm nhạc của chúng ta được định hình từ khi nào?
Gu âm nhạc của chúng ta được định hình từ khi nào?
Bạn càng tập trung vào cảm giác của mình khi nghe một bài hát thì mối liên hệ cảm xúc giữa bạn với âm nhạc càng mạnh mẽ.
3 nhóm kỹ năng kiến thức bổ ích giúp bạn trở thành một ứng viên sáng giá
3 nhóm kỹ năng kiến thức bổ ích giúp bạn trở thành một ứng viên sáng giá
Hiện nay với sự phát triển không ngừng của xã hội và công nghệ, việc chuẩn bị các kỹ năng bổ ích cho bản thân
Đôi nét về trái ác quỷ hệ Zoan thần thoại của Luffy
Đôi nét về trái ác quỷ hệ Zoan thần thoại của Luffy
Nên biết Nika được mọi người xưng tụng là thần mặt trời, nên chưa chắc chắn được năng lực của Nika sẽ liên quan đến mặt trời