Chó cũng là loài động vật đầu tiên được con ngườithuần hóa[14][15] và đã được chọn giống qua hàng thiên niên kỷ với nhiều hành vi, khả năng cảm nhận và đặc tính vật lý.[16] Loài vật này được sử dụng để giữ nhà hoặc làm thú chơi. Răng của chúng dùng để giết mồi, nhai thịt và gặm thịt, thỉnh thoảng để cắn nhau. Chó là loài động vật được nuôi nhiều trên thế giới, có thể trông coi nhà, chăn cừu, dẫn đường, kéo xe, cũng là thực phẩm giàu đạm. Chó giúp con người rất nhiều việc như trông nhà cửa, săn bắt, và được xem như là loài vật trung thành, tình nghĩa nhất với con người. Ngày nay, nhu cầu nuôi chó cảnh đang được phát triển nên những giống chó nhỏ như Fox, Chihuahua hoặc chó thông minh như Collie được nhiều người chơi quan tâm đến.
Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói là một loài động vật có vú gần giống như chồn sinh sống ở các hốc cây vào khoảng 40 triệu năm trước. Còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ, màu xám. Vào cuối kỳ Băng hà, cách đây khoảng 40.000 năm, chó sói và người chung sống với nhau thành nhóm săn mồi theo bầy. Chó sói và người thường tranh nhau con mồi, thậm chí còn giết nhau. Nhưng hẳn là chó sói đã bắt đầu tìm bới những mẩu thức ăn thừa do con người bỏ lại. Con người đã thuần hóa chó sói con và qua lai giống nhiều thế hệ, chó sói tiến hóa thành chó nhà ngày nay.
Năm 1758, nhà phân loại học Carl Linnaeus đã công bố trong cuốn Systema Naturae về việc phân loại loài, trong đó Canis (chi chó) là một từ tiếng Latin nghĩa là chó.[17] Ông phân loại loài chó nuôi là Canis familiaris (Linnaeus, 1758) và trong trang kế tiếp về một loài riêng biệt, ông phân loại chó sói là Canis lupus (Linnaeus, 1758).[2] Năm 1926, Ủy ban Quốc tế về Danh mục Động vật học (ICZN) đã đưa ra luận điểm 91 rằng loài chó nuôi Canis familiaris (Linnaeus, 1758) được đưa vào danh sách chính thức.[3] Năm 1957, ICZN quy định trong luận điểm 451 rằng ''Canis dingo (Meyer, 1793) là tên sử dụng cho loài chó dingo và được đưa vào danh sách chính thức của loài này.[18] Chó còn được con người lai tạo ra nhiều giống chó khác nhau, rất đa dạng. Giống chó lai là giống chó vốn được ghép bởi 2 loài chó bố, mẹ khác nhau (về màu sắc, hình dạng,...). Hai con bố, mẹ này sau khi giao phối sẽ tạo ra một giống chó mới mang thuộc tính của bố mẹ, tổ tiên.
Năm 1999, một nghiên cứu về ADN mitochondria cho thấy rằng chó cưng có thể xuất phát từ sói xám. Trong quá trình phát triển, các giống chó như dingo và chó hát New Guinea đã xuất hiện khi các cộng đồng con người cách ly lẫn nhau hơn.[19] Trong cuốn sách Mammal Species of the World, phiên bản thứ ba năm 2005, nhà động vật học W. Christopher Wozencraft liệt kê sói Canis lupus và các phân loài hoang dã, cũng đề xuất thêm hai phân loài khác, tạo thành nhóm chó cưng. Phân loài đầu tiên là familiaris, được Linnaeus đặt tên vào năm 1758, và phân loài thứ hai là dingo, được Meyer đặt tên vào năm 1793. Wozencraft cũng cho rằng hallstromi (chó hát New Guinea) là một tên khác của dingo. Ông dựa vào nghiên cứu về ADN mitochondria như một trong những căn cứ để đưa ra quyết định này.[4] Có một số tranh cãi trong cộng đồng nhà động vật học về việc bao gồm cả familiaris và dingo trong nhóm "chó cưng".[20][21]
Một hội thảo diễn ra năm 2019, do Canid Specialist Group thuộc Ủy ban Công bằng Sinh vật Công bằng của IUCN tổ chức, xem dingo và chó hát New Guinea là chó hoang Canis familiaris, do đó không đánh giá chúng trong Danh sách đỏ IUCN các loài bị đe dọa.[22]
Một con chó được thuần hóa được tìm thấy ở Oberkassel, Bonn, Đức, được xem là hóa thạch chó cổ nhất đã được chấp nhận. Các chứng cứ về ngữ cảnh, đồng vị, di truyền và hình thái cho thấy con chó này không phải là một con sói địa phương.[23] Nó đã chết cách đây 14.223 năm và được tìm thấy được chôn cùng với một người đàn ông và một người phụ nữ. Cả ba người được rắc phấn màu đỏ hematite và chôn dưới những khối bazan lớn, dày. Con chó đã mất vì mắc phải bệnh cảm cúm chó. Mặc dù đã có mô tả về hóa thạch của các con chó thời kỳ cổ từ cách đây 30.000 năm, nhưng việc phân biệt chúng là chó hay sói vẫn gây tranh cãi[24] do sự đa dạng hình thái giữa các con sói trong thời kỳ Pleistocen muộn.[1]
Theo thông tin hiện có, chó được coi là loài động vật đầu tiên được thuần hóa[14][25] trong thời kỳ của người săn bắn trước thời kỳ nông nghiệp.[26][1] Dữ liệu di truyền cho thấy rằng tất cả các con chó cổ và hiện đại có nguồn gốc chung từ một quần thể sói cổ đã tuyệt chủng, khác với dòng họ sói hiện đại.[27][26] Có một nhóm sói Pleistocen muộn được tìm thấy gần Thayngen ở Thụy Sĩ, được xếp vào một nhóm em gái của các di tích sói. Tổ tiên chung gần nhất của chó và sói được ước tính từ cách đây khoảng 32.100 năm.[9] Điều này cho thấy rằng có thể có một con sói Pleistocen muộn tuyệt chủng đã là tổ tiên của chó,[25][1][28] và sói hiện đại là họ hàng gần nhất của chó.[25]
Chó là một ví dụ điển hình về quá trình thuần hóa động vật thông qua mối quan hệ đồng hành với con người.[24][29] Trong suốt nhiều năm, những câu hỏi xoay quanh việc chó được thuần hóa lần đầu ở đâu và khi nào đã gặp nhiều khó khăn cho các nhà khoa học. Tuy nhiên, dữ liệu di truyền cho thấy quá trình thuần hóa chó đã bắt đầu từ khoảng 25.000 năm trước đây, trong một hoặc nhiều quần thể sói tại châu Âu, vùng Bắc Cực cao hoặc Đông Á.[30] Một nghiên cứu vào năm 2021 cũng chỉ ra rằng chó đã được thuần hóa ở Siberia cách đây khoảng 23.000 năm bởi người Siberia Bắc cổ đại, sau đó lan rộng từ phía đông sang châu Mỹ và từ phía tây qua châu Á.[23]
Chó là loài động vật có sự biến đổi lớn nhất trên Trái đất, với khoảng 450 giống chó được công nhận trên toàn cầu.[30] Trải qua quá trình lựa chọn của con người, trong thời kỳ Victoria, đã phát triển các giống chó hiện đại, dẫn đến sự đa dạng về diện mạo.[25] Hầu hết các giống chó đã được phát triển trong khoảng 200 năm qua từ một số nhóm nguồn gốc.[25][30] Từ đó, chó đã trải qua sự thay đổi nhanh chóng về diện mạo và hình thành thành các giống chó hiện đại ngày nay nhờ vào sự lựa chọn nhân tạo của con người. Có sự biến đổi lớn về hình dạng hộp sọ, cơ thể và chiều dài cơ thể giữa các giống chó. Điều này tạo ra sự đa dạng diện mạo của chó vượt xa so với tất cả các loài động vật ăn thịt khác. Mỗi giống chó có những đặc điểm riêng về hình thái, bao gồm kích thước cơ thể, hình dạng hộp sọ, hình dạng đuôi, loại lông và màu sắc.[25] Ngoài ra, chó còn có các đặc điểm hành vi đa dạng như bảo vệ, chăn dắt, săn bắn, lấy về và phát hiện mùi. Chúng cũng có những đặc điểm cá nhân khác nhau như hành vi xã hội, táo bạo và hung dữ, cho thấy sự đa dạng về chức năng và hành vi của chó.[25][30][25] Với sự đa dạng diện mạo và chức năng, chó đã trở thành loài ăn thịt phổ biến nhất trên toàn thế giới.[30] Chúng đã phân bố rộng khắp và trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Ví dụ điển hình về sự phân tán này là sự hiện diện của nhiều giống chó hiện đại thuộc dòng châu Âu trong thời kỳ Victoria.[26]
Các giác quan như thị giác, thính giác và khứu giác phát triển mạnh: Chó có mắt to, tai dựng và mũi nhạy, nhờ đó chúng có thể theo dấu con mồi thành công, dù là săn đơn độc hay theo bầy. Tất cả các loài chó trừ chó bụi rậm Nam Mỹ đều có chân dài thích nghi với chạy nhanh khi săn đuổi mồi. Chó là loài "đi bằng đầu ngón chân" và có các bàn chân đặc trưng, năm ngón ở chân trước và bốn ngón ở chân sau. Đôi khi có trường hợp chó nhà có năm ngón ở chân sau (móng thứ năm gọi là móng huyền). Chó rừng có đuôi dài, lông dày, thường đồng màu và không có đốm sọc.
Thời gian mang thai trung bình của chó kéo dài khoảng 60 đến 62 ngày, có thể sớm hơn hoặc kéo dài đến 65 ngày. Lúc mới ra đời, chó con không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Giống như tất cả các động vật có vú, sau khi con non được sinh ra con mẹ cho con non bú và chăm sóc con non vài tháng, với sự giúp đỡ của các thành viên khác trong gia đình, lúc này con mẹ sẽ trở nên hung dữ. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là 42 chiếc.
Mắt chó có đến 3 mí: một mí trên, một mí dưới và mí thứ ba nằm ở giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém, chó có thể nhìn thấy màu lam, màu vàng, nhưng không phân biệt được đỏ và lục. Cụ thể thì bên trong mắt của chó có hai loại tế bào hình nón có thể cảm nhận màu sắc, trong khi ở người là ba. Bù lại, chúng có thể quan sát khá rõ trong đêm tối.
Tai của chúng rất thính, chúng có thể nhận biết được 35.000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất thính như tai. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi khác nhau. Với mỗi con chó, sống mũi và nếp nhăn trên mũi sẽ tạo ra những đường vân độc nhất - gọi là vân mũi, là thứ giúp nhận định danh tính của chúng.
Não chó rất phát triển. Trí tuệ của loài chó có thể tương đương với một đứa trẻ 2 tuổi. Não bộ của chó có tiết ra oxytocin khi tương tác với con người và đồng loại. Điều này cũng giống như phản ứng của não người khi được ôm hoặc hôn. Có thể thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay lấy đuôi che cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cơ thể cho mình. Thân nhiệt của chó là 38°C. Chó có đến 2 lớp lông: lớp bên ngoài dễ thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong nhũng ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ "hạ nhiệt" trong những ngày oi bức.
Về sức khỏe, người ta đã tính được rằng: chó 1 năm tuổi tương ứng với người 16 tuổi. Chó 2 tuổi tương ứng với người 24 tuổi, chó 3 năm tuổi - người 30, và sau đó cứ thêm một năm tuổi chó bằng 4 năm tuổi người. Một số thức ăn thông thường của con người và hộ gia đình có thể gây độc cho chó, như Sô-cô-la,[31]hành và tỏi,[32]nho và nho khô,[32]mắc ca,[32]xylitol[33] cũng như nhiều loài thực vật và chất liệu có thể gây ngộ độc khác.[32][34] Các dấu hiệu ngộ độc có thể là nôn mửa nhiều, ngất hoặc thậm chí tử vong.[35]
Trong văn hóa tâm linh của một số dân tộc, chó là con vật thân thiết gắn bó thủy chung với người chủ nói riêng và con người nói chung, những đặc tính của chó được tôn vinh, thậm chí có nơi chó được thờ cúng tại các đền thờ, miếu mạo.[36] Theo một nhà dân tộc học người Nga, tục thờ chó khá phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới, và có ở hầu khắp thần thoại các dân tộc ở Đông Nam Á lục địa. Ban đầu tục này xuất phát từ các dân tộc chăn nuôi gia súc khu vực Tây Nam Á, với vai trò canh giữ đàn gia súc. Sau đó có thể người Ấn–Âu từ thời đồng thau đã mang vào Đông Á truyền thống chăn nuôi cùng với tín ngưỡng thờ chó. Trong thần thoại vùng Địa Trung Hải và Cận Đông, hình tượng chó, kẻ canh giữ gia súc đã sớm chuyển thành kẻ canh giữ thế giới âm phủ.[37]
Văn hóa về chó trong nghệ thuật đã có niên đại hàng ngàn năm khi chó được vẽ tại tường trong các hang động. Việc miêu tả chó trở nên tinh vi hơn khi nhiều giống được phát triển và quan hệ giữa người và chó phát triển. Những cảnh đi săn phổ biến trong thời Trung Cổ và Phục Hưng. Chó được phác họa để biểu tượng cho sự dẫn dắt, bảo vệ, lòng trung thành, trung tín,, tin tưởng, quan tâm và yêu thương.[38]
Cảnh săn, tranh của Decameron, Davide Ghirlandaio, c.1485 Bảo tàng Brooklyn
Thuật từ "chó nhà" (tiếng Anh: domestic dog) bao gồm cả chó nuôi và chó hoang. Từ chó trong tiếng Anh, "dog" xuất phát từ một từ tiếng Anh cổdocga, nghĩa là "một giống chó mạnh" (powerful dog breed).[39] Thuật ngữ này cũng có thể bắt nguồn từ *dukkōn (một từ tiếng Proto-Germanic), viết trong tiếng Anh cổ là finger-docce ("finger-muscle").[40] Piotr Gąsiorowski từng gợi ý rằng từ tiếng Anh cổdocga thực chất xuất phát từ một tính từ tiếng Anh cổ chỉ màu sắc dox.[41]
Con chó đầu tiên được đưa vào không gian là con Laika của Liên Xô trong chuyến bay năm 1957. Laika đã chết vì đau tim trong chuyến bay, xác của nó đã bị bốc cháy cùng con tàu khi rơi vào bầu khí quyển.[43] Ở Philipines, một chú chó tên Kabang đã bị mất mõm vì cứu con gái và cháu gái của chủ. Nó trở nên nổi tiếng cũng nhờ hành động ''dũng cảm'' đó. Ngoài hai chú chó đã nói trên, chú chó Hachiko (1924 - 1935) của Nhật Bản cũng là một biểu tượng của sự trung thành trên toàn thế giới khi nó đứng ở sân ga đợi chủ đến 10 năm.
Thịt chó là một món ăn thông thường tại một số nước châu Á như Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam, nó vừa có tính cách bình dân lại vừa được xếp vào hàng đặc sản.Theo quan niệm ở một số địa phương Việt Nam thì thịt chó còn là món ăn giải xui. Tuy nhiên, tại nhiều quốc gia Tây phương và Hồi giáo, việc giết chó làm thịt và ăn thịt chó (và mèo) được coi là tàn bạo và bị cấm.[44]
Tại Việt Nam, chó dùng làm thịt thường là chó cỏ không phải là "chó cảnh", "chó Tây", vì theo đánh giá thì hai loại đó vừa đắt vừa không ngon. Thịt chó ngoài việc cung cấp thực phẩm còn có một giá trị y học nhất định theo quan niệm người Á Đông (trừ Nhật Bản). Thịt chó theo Trung y có vị mặn, tính ấm và có rất nhiều chất đạm. Theo công văn Cục Thú y ban hành vào ngày 23.1.2014, chỉ riêng tại Việt Nam, hàng năm ước tính có khoảng 5 triệu cá thể chó bị giết phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ thịt.[45]
^ abcdThalmann, Olaf; Perri, Angela R. (2018). “Paleogenomic Inferences of Dog Domestication”. Trong Lindqvist, C.; Rajora, O. (biên tập). Paleogenomics. Population Genomics. Springer, Cham. tr. 273–306. doi:10.1007/13836_2018_27. ISBN978-3-030-04752-8.
^Wang, Xiaoming; Tedford, Richard H.; Dogs: Their Fossil Relatives and Evolutionary History. New York: Columbia University Press, 2008, page 1
^Lindblad-Toh, K.; Wade, C. M.; Mikkelsen, T. S.; Karlsson, E. K.; Jaffe, D. B.; Kamal, M.; Clamp, M.; Chang, J. L.; Kulbokas, E. J.; Zody, M. C.; Mauceli, E.; Xie, X.; Breen, M.; Wayne, R. K.; Ostrander, E. A.; Ponting, C. P.; Galibert, F.; Smith, D. R.; Dejong, P. J.; Kirkness, E.; Alvarez, P.; Biagi, T.; Brockman, W.; Butler, J.; Chin, C. W.; Cook, A.; Cuff, J.; Daly, M. J.; Decaprio, D.; và đồng nghiệp (2005). “Genome sequence, comparative analysis and haplotype structure of the domestic dog”. Nature. 438 (7069): 803–819. Bibcode:2005Natur.438..803L. doi:10.1038/nature04338. PMID16341006.
^Fan, Zhenxin; Silva, Pedro; Gronau, Ilan; Wang, Shuoguo; Armero, Aitor Serres; Schweizer, Rena M.; Ramirez, Oscar; Pollinger, John; Galaverni, Marco; Ortega Del-Vecchyo, Diego; Du, Lianming; Zhang, Wenping; Zhang, Zhihe; Xing, Jinchuan; Vilà, Carles; Marques-Bonet, Tomas; Godinho, Raquel; Yue, Bisong; Wayne, Robert K. (2016). “Worldwide patterns of genomic variation and admixture in gray wolves”. Genome Research. 26 (2): 163–73. doi:10.1101/gr.197517.115. PMID26680994.
^ abThalmann, O.; Shapiro, B.; Cui, P.; Schuenemann, V. J.; Sawyer, S. K.; Greenfield, D. L.; Germonpre, M. B.; Sablin, M. V.; Lopez-Giraldez, F.; Domingo-Roura, X.; Napierala, H.; Uerpmann, H.-P.; Loponte, D. M.; Acosta, A. A.; Giemsch, L.; Schmitz, R. W.; Worthington, B.; Buikstra, J. E.; Druzhkova, A.; Graphodatsky, A. S.; Ovodov, N. D.; Wahlberg, N.; Freedman, A. H.; Schweizer, R. M.; Koepfli, K.- P.; Leonard, J. A.; Meyer, M.; Krause, J.; Paabo, S.; và đồng nghiệp (2013). “Complete Mitochondrial Genomes of Ancient Canids Suggest a European Origin of Domestic Dogs”. Science. 342 (6160): 871. doi:10.1126/science.1243650. PMID24233726.
^Perri, Angela (2016). “A wolf in dog's clothing: Initial dog domestication and Pleistocene wolf variation”. Journal of Archaeological Science. 68: 1. doi:10.1016/j.jas.2016.02.003.
^Murphy, L. A.; Coleman, A. E. (2012). “Xylitol Toxicosis in Dogs”. Veterinary Clinics of North America: Small Animal Practice. 42 (2): 307–312. doi:10.1016/j.cvsm.2011.12.003.
Abrantes, Roger (1999). Dogs Home Alone. Wakan Tanka, 46 pages. ISBN 0-ngày 93 tháng 2 năm 484 (paperback).
A&E Television Networks (1998). Big Dogs, Little Dogs: The companion volume to the A&E special presentation, A Lookout Book, GT Publishing. ISBN 1-57719-353-9 (hardcover).
Bloch, Günther. Die Pizza-Hunde(tiếng Đức), 2007, Franckh-Kosmos-Verlags GmbH & Co. KG, Stuttgart, ISBN 978-3-440-10986-1
Brewer, Douglas J. (2002) Dogs in Antiquity: Anubis to Cerberus: The Origins of the Domestic Dog, Aris & Phillips ISBN 0-85668-704-9
Coppinger, Raymond and Lorna Coppinger (2002). Dogs: A New Understanding of Canine Origin, Behavior and Evolution, University of Chicago Press ISBN 0-226-11563-1
Cunliffe, Juliette (2004). The Encyclopedia of Dog Breeds. Parragon Publishing. ISBN 0-7525-8276-3.
Derr, Mark (2004). Dog's Best Friend: Annals of the Dog-Human Relationship. University of Chicago Press. ISBN 0-226-14280-9
Donaldson, Jean (1997). The Culture Clash. James & Kenneth Publishers. ISBN 1-888047-05-4 (paperback).
Fogle, Bruce, DVM (2000). The New Encyclopedia of the Dog. Doring Kindersley (DK). ISBN 0-7894-6130-7.
Milani, Myrna M. (1986). The Body Language and Emotion of Dogs: A practical guide to the Physical and Behavioral Displays Owners and Dogs Exchange and How to Use Them to Create a Lasting Bond, William Morrow, 283 pages. ISBN 0-688-12841-6 (trade paperback).
Pfaffenberger, Clare (1971). New Knowledge of Dog Behavior. Wiley, ISBN 0-87605-704-0 (hardcover); Dogwise Publications, 2001, 208 pages, ISBN 1-929242-04-2 (paperback).
Shook, Larry (1995). "Breeders Can Hazardous to Health", The Puppy Report: How to Select a Healthy, Happy Dog, Chapter Two, pp. 13–34. Ballantine, 130 pages, ISBN 0-345-38439-3 (mass market paperback); Globe Pequot, 1992, ISBN 1-55821-140-3 (hardcover; this is much cheaper should you buy).
Shook, Larry (1995). The Puppy Report: How to Select a Healthy, Happy Dog, Chapter Four, "Hereditary Problems in Purebred Dogs", pp. 57–72. Ballantine, 130 pages, ISBN 0-345-38439-3 (mass market paperback); Globe Pequot, 1992, ISBN 1-55821-140-3 (hardcover; this is much cheaper should you buy).
RW Nelson, Couto page 107 Small animal internal medicine,
Thomas, Elizabeth Marshall (1993). The Hidden Life of Dogs (hardcover), A Peter Davison Book, Houghton Mifflin. ISBN 0-395-66958-8.
Trumler, Eberhard. Mit dem Hund auf du; Zum Verständnis seines Wesens und Verhaltens(tiếng Đức); 4. Auflage Januar 1996; R. Piper GmbH & Co. KG, München
Entoma Vasilissa Zeta (エ ン ト マ ・ ヴ ァ シ リ ッ サ ・ ゼ ー タ, εντομα ・ βασιλισσα ・ ζ) là một chiến hầu người nhện và là thành viên của "Pleiades Six Stars," đội chiến hầu của Great Tomb of Nazarick. Cô ấy được tạo ra bởi Genjiro.