Phá Am Tổ Tiên (zh. 破庵祖先, ja. Haan Sosen, 1136-1211) là một vị Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc dòng Hổ Khâu, phái Dương Kỳ, tông Lâm Tế. Sư là một trong ba vị đệ tử nối pháp xuất sắc nhất của Thiền sư Mật Am Hàm Kiệt, dưới sư có đệ tử đắc pháp nổi danh là Thiền sư Vô Chuẩn Sư Phạm. Môn phong của sư được gọi là Phá Am phái.
Một phần của loạt bài về |
Thiền sư Trung Quốc |
---|
|
|
|
|
- Hi Thiên
- Đạo Ngộ, Duy Nghiễm
- Bảo Thông, Thiên Nhiên
- Sùng Tín , Đàm Thịnh
- Viên Trí, Đức Thành, Vô Học
- Tuyên Giám, Thiện Hội
- Khánh Chư, Lương Giới
- Nghĩa Tồn, Toàn Hoát, Sư Ngạn
- Văn Yển, Huệ Lăng, Sư Bị
|
|
|
|
- Huệ Nam
- Tổ Tâm, Khắc Văn, Thường Thông
- Ngộ Tân, Duy Thanh, Huệ Hồng, Tùng Duyệt
- Tuệ Phương, Trí Thông, Thủ Trác
- Thủ Trác, Giới Kham, Đàm Bí
- Tùng Cẩn, Hoài Sưởng
|
- Phương Hội
- Thủ Đoan, Pháp Diễn
- Phật Cần, Phật Nhãn, Phật Giám
- Tông Cảo, Thiệu Long, Huệ Viễn
- Đức Quang, Đàm Hoa, Đạo Tế
- Cư Giản, Thiện Trân, Hàm Kiệt
- Đại Quan, Hành Đoan, Huệ Khai
- Tổ Tiên, Sùng Nhạc, Đạo Sinh
- Nguyên Hi, Trí Cập, Huệ Tính
- Phổ Nham, Đạo Trùng, Sư Phạm
- Đức Huy, Hành Diễn, Đại Hân
- Đạo Long, Trí Ngu, Hành Di
- Diệu Luân, Tổ Khâm, Tổ Nguyên
- Huệ Đàm, Nhất Ninh, Tông Hâm
- Tuệ Bảo, Nguyên Diệu, Tịnh Giới
- Thanh Củng, Minh Bản, Tiên Đổ
- Duy Tắc, Nguyên Trường, Không Độ
- Thời Uỷ, Phổ Trì, Huệ Sâm
- Phổ Từ, Minh Tuyên, Bản Thụy
- Minh Thông, Pháp Hội
- Đức Bảo, Đức Thanh
- Châu Hoằng, Chính Truyền
- Viên Ngộ, Viên Tu
- Viên Tín, Nhân Hội
- Thông Kỳ, Thông Dung, Đạo Mân
- Thông Tú, Thông Vấn
- Thủy Nguyệt, Chuyết Chuyết
- Đạo An, Long Kỳ, Chân Phác
- Hành Sâm, Hành Trân
- Siêu Vĩnh, Như Trường, Siêu Cách
- Tử Dung, Tính Âm
- Hư Vân, Lai Quả
|
- Lương Giới
- Bản Tịch, Đạo Ưng, Cư Độn
- Huệ Hà, Đạo Phi
- Quán Chí, Duyên Quán, Cảnh Huyền
- Nghĩa Thanh, Đạo Khải
- Tử Thuần, Tự Giác, Pháp Thành
- Chính Giác, Thanh Liễu, Nhất Biện
- Huệ Huy, Tông Giác, Tăng Bảo
- Huệ Tộ, Trí Giám, Tăng Thế
- Minh Quang, Như Tịnh, Như Mãn
- Đức Cử, Hành Tú
- Huệ Nhật, Vân Tụ, Phúc Dụ
- Vĩnh Dư, Đại Chứng, Văn Thái
- Phúc Ngộ, Văn Tài, Tử Nghiêm
- Liễu Cải, Khế Bân, Khả Tùng, Văn Tải
- Tông Thư, Thường Trung, Thường Thuận
- Tuệ Kinh, Phương Niệm
- Nguyên Lai, Nguyên Cảnh
- Nguyên Hiền, Viên Trừng
- Đạo Ngân, Đạo Thịnh, Đạo Bái
- Minh Tuyết, Minh Phương, Minh Vu
- Hoằng Kế, Đại Văn, Đại Tâm
- Tịnh Nột, Tịnh Đăng, Tịnh Chu
- Hưng Kỳ, Hưng Trù, Hưng Long
- Trí Tiên, Trí Giáo
- Pháp Hậu, Giới Sơ
- Nhất Tín, Đỉnh Triệt
- Hư Vân , Thánh Nghiêm
|
- Văn Yển
- Trừng Viễn, Nhân Úc
- Đạo Thâm, Thủ Sơ
- Duyên Mật, Sư Khoan, Hạo Giám
- Quang Tộ, Huệ Viễn, Phong Tường
- Lương Nhã, Ứng Chân, Sư Giới
- Trọng Hiển, Thiện Tiêm
- Thừa Cổ, Hiểu Thông, Hoài Trừng
- Nghĩa Hoài, Thảo Đường, Truyền Tông
- Liễu Nguyên, Khế Tung, Giám Thiều
- Tông Bản, Pháp Tú
- Trọng Nguyên, Ứng Phu, Pháp Anh
- Sùng Tín, Thiện Bản, Thanh Mãn
- Duy Bạch, Tông Vĩnh, Tông Trách
- Hoài Thâm, Tự Như
- Tư Huệ, Tông Diễn
- Huệ Quang, Văn Tuệ, Đạo Xương
- Nguyên Diệu, Lương Khánh, Chính Thụ
- Thâm Tịnh
|
|
|
|
|
Cổng thông tin Phật giáo |
|
Sư họ Vương, sinh năm Bính Thìn (1136) nhằm niên hiệu Thiệu Hưng thứ 6 đời Tống Cao Tông nhà Nam Tống tại xứ Quảng An (nay là Tứ Xuyên).
Đầu tiên, sư thờ ngài Đức Tường ở Viện La Hán làm thầy. Rồi sư lại đi tham học khắp nơi. Sư đến tham vấn với ngài Chiêu Giác. Kế đến sư cạo tóc xuất gia và thọ giới Cụ túc với ngài Đức Sơn Quyên ở Lễ Châu. Sau sư du phương đến chùa Vạn Thọ ở Tô Châu, đêm khuya ngồi một mình ngoài sương tuyết, nghe tiếng chuông, sư ngẩng đầu nhìn thấy 2 chữ "Chiêu Đường", nghi tình vụt tan biến, tâm có chổ tỉnh ngộ.
Rời chùa Vạn Thọ, sư đến yết kiến Thiền sư Thủy Am Sư Nhất tại Song Lâm. Cuối cùng sư đến cầu pháp với Thiền sư Mật Am Hàm Kiệt tại Linh Ẩn Thiền Tự, Hàng Châu. Sư học đạo với Mật Am 5 năm và được ấn khả, truyền pháp.
Khi Thiền sư Mật Am chuyển đến trụ trì tại núi Tương Sơn, sư đi theo hầu thầy rồi sau đó từ giã thầy bắt đầu hành trình giáo hóa.
Đầu tiên, sư đến trụ trì tại Hàm Bình Thiền Viện tại núi Ngọa Long, Quý Châu, Tứ Xuyên theo lời mời của Thượng Thư Dương Công ở Ngọa Long Sơn. Trong cuộc đời giáo hoá của mình, sư từng trụ trì qua các chùa như:
- Tú Phong Thiền Viện (zh. 秀峰禪院) ở Phủ Bình Giang, tỉnh Giang Tô.
- Quảng Thọ Huệ Vân Thiền Viện (zh. 廣壽慧雲禪院) ở phủ Lâm An, tỉnh Triết Giang.
- Phúc Trân Thiền Viện (zh. 福臻禪院) ở phủ Bình Giang
- Phụng Sơn Tư Phúc Thiền Tự (zh. 鳳山資福禪寺) ở Hồ Châu, tỉnh Triết Giang.
Một hôm, sư đang thuyết pháp, có người hỏi: "Tâm viên ý mã không thể nắm bắt, xin hoà thượng từ bi khai thị". Sư đáp: "Nắm bắt nó làm gì? Hãy như gió thổi, nước tự niên thành gợn sóng lăn tăn!".
Vào ngày mồng 9 tháng 6 năm thứ 4 niên hiệu Gia Định đời vua Tống Ninh Tông, sư thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi đời và hạ lạp 49 năm. Môn đệ xây tháp thờ xá lợi tại Thiền Viện Tú Phong.
Pháp ngữ của sư được ghi lại trong:
- Phá Am Hòa Thượng Ngữ Lục (zh. 破菴和尚語錄, 1 quyển).
- Phá Am Tiên Thiền Sư Ngữ Yếu (zh. 破菴先禪師語要, 1 quyển).
- Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
- Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
- Thích Thanh Từ: Thiền sư Trung Hoa I-III. TP HCM 1990, 1995.
- Dumoulin, Heinrich:
- Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
- Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.