Thúy Vy Vô Học (zh: 翠微無學, ja: Suibi Mugaku, ?-?) là cao tăng Thiền Tông đời Đường, sống vào khoảng thế kỷ 09. Sư là đệ tử đắc pháp của Thiền sư Đan Hà Thiên Nhiên và có đệ tử nối pháp là Thiền sư Đầu Tử Đại Đồng.
Một phần của loạt bài về |
Thiền sư Trung Quốc |
---|
|
|
|
|
- Hi Thiên
- Đạo Ngộ, Duy Nghiễm
- Bảo Thông, Thiên Nhiên
- Sùng Tín , Đàm Thịnh
- Viên Trí, Đức Thành, Vô Học
- Tuyên Giám, Thiện Hội
- Khánh Chư, Lương Giới
- Nghĩa Tồn, Toàn Hoát, Sư Ngạn
- Văn Yển, Huệ Lăng, Sư Bị
|
|
|
|
- Huệ Nam
- Tổ Tâm, Khắc Văn, Thường Thông
- Ngộ Tân, Duy Thanh, Huệ Hồng, Tùng Duyệt
- Tuệ Phương, Trí Thông, Thủ Trác
- Thủ Trác, Giới Kham, Đàm Bí
- Tùng Cẩn, Hoài Sưởng
|
- Phương Hội
- Thủ Đoan, Pháp Diễn
- Phật Cần, Phật Nhãn, Phật Giám
- Tông Cảo, Thiệu Long, Huệ Viễn
- Đức Quang, Đàm Hoa, Đạo Tế
- Cư Giản, Thiện Trân, Hàm Kiệt
- Đại Quan, Hành Đoan, Huệ Khai
- Tổ Tiên, Sùng Nhạc, Đạo Sinh
- Nguyên Hi, Trí Cập, Huệ Tính
- Phổ Nham, Đạo Trùng, Sư Phạm
- Đức Huy, Hành Diễn, Đại Hân
- Đạo Long, Trí Ngu, Hành Di
- Diệu Luân, Tổ Khâm, Tổ Nguyên
- Huệ Đàm, Nhất Ninh, Tông Hâm
- Tuệ Bảo, Nguyên Diệu, Tịnh Giới
- Thanh Củng, Minh Bản, Tiên Đổ
- Duy Tắc, Nguyên Trường, Không Độ
- Thời Uỷ, Phổ Trì, Huệ Sâm
- Phổ Từ, Minh Tuyên, Bản Thụy
- Minh Thông, Pháp Hội
- Đức Bảo, Đức Thanh
- Châu Hoằng, Chính Truyền
- Viên Ngộ, Viên Tu
- Viên Tín, Nhân Hội
- Thông Kỳ, Thông Dung, Đạo Mân
- Thông Tú, Thông Vấn
- Thủy Nguyệt, Chuyết Chuyết
- Đạo An, Long Kỳ, Chân Phác
- Hành Sâm, Hành Trân
- Siêu Vĩnh, Như Trường, Siêu Cách
- Tử Dung, Tính Âm
- Hư Vân, Lai Quả
|
- Lương Giới
- Bản Tịch, Đạo Ưng, Cư Độn
- Huệ Hà, Đạo Phi
- Quán Chí, Duyên Quán, Cảnh Huyền
- Nghĩa Thanh, Đạo Khải
- Tử Thuần, Tự Giác, Pháp Thành
- Chính Giác, Thanh Liễu, Nhất Biện
- Huệ Huy, Tông Giác, Tăng Bảo
- Huệ Tộ, Trí Giám, Tăng Thế
- Minh Quang, Như Tịnh, Như Mãn
- Đức Cử, Hành Tú
- Huệ Nhật, Vân Tụ, Phúc Dụ
- Vĩnh Dư, Đại Chứng, Văn Thái
- Phúc Ngộ, Văn Tài, Tử Nghiêm
- Liễu Cải, Khế Bân, Khả Tùng, Văn Tải
- Tông Thư, Thường Trung, Thường Thuận
- Tuệ Kinh, Phương Niệm
- Nguyên Lai, Nguyên Cảnh
- Nguyên Hiền, Viên Trừng
- Đạo Ngân, Đạo Thịnh, Đạo Bái
- Minh Tuyết, Minh Phương, Minh Vu
- Hoằng Kế, Đại Văn, Đại Tâm
- Tịnh Nột, Tịnh Đăng, Tịnh Chu
- Hưng Kỳ, Hưng Trù, Hưng Long
- Trí Tiên, Trí Giáo
- Pháp Hậu, Giới Sơ
- Nhất Tín, Đỉnh Triệt
- Hư Vân , Thánh Nghiêm
|
- Văn Yển
- Trừng Viễn, Nhân Úc
- Đạo Thâm, Thủ Sơ
- Duyên Mật, Sư Khoan, Hạo Giám
- Quang Tộ, Huệ Viễn, Phong Tường
- Lương Nhã, Ứng Chân, Sư Giới
- Trọng Hiển, Thiện Tiêm
- Thừa Cổ, Hiểu Thông, Hoài Trừng
- Nghĩa Hoài, Thảo Đường, Truyền Tông
- Liễu Nguyên, Khế Tung, Giám Thiều
- Tông Bản, Pháp Tú
- Trọng Nguyên, Ứng Phu, Pháp Anh
- Sùng Tín, Thiện Bản, Thanh Mãn
- Duy Bạch, Tông Vĩnh, Tông Trách
- Hoài Thâm, Tự Như
- Tư Huệ, Tông Diễn
- Huệ Quang, Văn Tuệ, Đạo Xương
- Nguyên Diệu, Lương Khánh, Chính Thụ
- Thâm Tịnh
|
|
|
|
|
Cổng thông tin Phật giáo |
|
Sử liệu về sư được ghi lại rất ít, không biết sư quê quán ở đâu. Hành trạng và pháp ngữ của sư được ghi lại vắn tắt trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục.
Ban đầu, sư đến tham yết Thiền sư Đan Hà Thiên Nhiên và hỏi: "Thế nào là thầy của chư Phật?", Đan Hà quát nạt: "May mà tự thương xót cuộc sống, còn đi phục thị kẻ khác để làm gì?". Sư trở lui ba bước, Đan Hà nói: "Sai". Sư bước tới trước, Đan Hà nói: "Sai! Sai". Vô Học kiễng một chân lên, quay mình một vòng, nhắm phía ngoài đi ra. Đan Hà nói: "Đúng thì là đúng rồi, nhưng lại cô phụ chư Phật". Nghe câu này, sư liền lãnh hội yếu chỉ và được Đan Hà ấn khả.
Sau, sư đến trụ trì tại chùa Thúy Vi ở núi Chung Nam, tỉnh Thiểm Tây và khai đường giáo hóa. Phong cách dạy chúng của sư kế thừa từ Thiền sư Đan Hà Thiên Nhiên, không câu trước nơi nghi lễ, lại không xem sách vở kinh điển, chỉ tùy nhân duyên mà có các hành động lời nói tự do, phóng khoáng để dạy đệ tử và tự xưng mình là lão Vô Học.
Vua Đường Hy Tông từng mời sư vào cung thuyết pháp và ban tặng tử y. Sư được sắc thụy là Ứng Chiếu Đại Sư (應照大師).
Sư trụ Thúy Vi, Đầu Tử hỏi: "Xin hỏi Nhị Tổ gặp Đạt Ma đắc cái gì?". Sư nói: "Ông nay gặp ta lại đắc cái gì?".
Một hôm nọ, sư tại pháp đường đi tới đi lui, Đầu Tử nghinh đón phía trước hành lễ, hỏi: "Chỉ ý của Tổ sư từ Tây lại, Hòa thượng truyền cho người khác thế nào?". Sư dừng bước đứng lại một lúc, Đầu Tử nói: "Thỉnh cầu lão sư truyền thị!", sư nói: "Còn cần vá nước dơ thứ hai không?". Đầu Tử liền lễ bái trí kính mà lui ra. Sư nói: "Đừng có cân nhắc suy lường!", Đầu Tử nói: "Thời vụ tới thì rễ và mầm tự mọc ra".
Nhân sư cúng dường tượng La Hán, tăng hỏi: "Năm xưa Hòa thượng Đan Hà Thiên Nhiên đốt tượng Phật gỗ, Hòa thượng vì sao cúng dường tượng La Hán?". Sư đáp: "Đốt cũng như không đốt, cúng dường mặc ý cúng dường". Tăng lại hỏi: "Cúng dường La Hán, La Hán có đến không vậy?", sư nói: "Ông mỗi ngày còn ăn cơm không?". Tăng không lời đối đáp, sư nói: "Cũng có chút lanh lợi".
- Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
- Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
- Thích Thanh Từ: Thiền sư Trung Hoa I-III. TP HCM 1990, 1995.
- Dumoulin, Heinrich:
- Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
- Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.