Hương Lâm Trừng Viễn (zh. 香林澄遠 xiānglín chéngyuǎn, ja. kyōrin chōon, năm 908 ౼ ngày 13 tháng 2 năm 987) là Thiền Sư Trung Quốc cuối đời Hậu Đường và đầu đời Tống, thuộc tông Vân Môn. Bên cạnh Thiền Sư Động Sơn Thủ Sơ, Sư được coi là pháp tử nổi danh nhất của Thiền Sư Vân Môn Văn Yển. Pháp hệ của tông Vân Môn phần lớn đều do các thế hệ đệ tử của Sư kế thừa. Đệ tử nối pháp của Sư có Thiền Sư Trí Môn Quang Tộ.[1][2]
Một phần của loạt bài về |
Thiền sư Trung Quốc |
---|
|
|
|
|
- Hi Thiên
- Đạo Ngộ, Duy Nghiễm
- Bảo Thông, Thiên Nhiên
- Sùng Tín , Đàm Thịnh
- Viên Trí, Đức Thành, Vô Học
- Tuyên Giám, Thiện Hội
- Khánh Chư, Lương Giới
- Nghĩa Tồn, Toàn Hoát, Sư Ngạn
- Văn Yển, Huệ Lăng, Sư Bị
|
|
|
|
- Huệ Nam
- Tổ Tâm, Khắc Văn, Thường Thông
- Ngộ Tân, Duy Thanh, Huệ Hồng, Tùng Duyệt
- Tuệ Phương, Trí Thông, Thủ Trác
- Thủ Trác, Giới Kham, Đàm Bí
- Tùng Cẩn, Hoài Sưởng
|
- Phương Hội
- Thủ Đoan, Pháp Diễn
- Phật Cần, Phật Nhãn, Phật Giám
- Tông Cảo, Thiệu Long, Huệ Viễn
- Đức Quang, Đàm Hoa, Đạo Tế
- Cư Giản, Thiện Trân, Hàm Kiệt
- Đại Quan, Hành Đoan, Huệ Khai
- Tổ Tiên, Sùng Nhạc, Đạo Sinh
- Nguyên Hi, Trí Cập, Huệ Tính
- Phổ Nham, Đạo Trùng, Sư Phạm
- Đức Huy, Hành Diễn, Đại Hân
- Đạo Long, Trí Ngu, Hành Di
- Diệu Luân, Tổ Khâm, Tổ Nguyên
- Huệ Đàm, Nhất Ninh, Tông Hâm
- Tuệ Bảo, Nguyên Diệu, Tịnh Giới
- Thanh Củng, Minh Bản, Tiên Đổ
- Duy Tắc, Nguyên Trường, Không Độ
- Thời Uỷ, Phổ Trì, Huệ Sâm
- Phổ Từ, Minh Tuyên, Bản Thụy
- Minh Thông, Pháp Hội
- Đức Bảo, Đức Thanh
- Châu Hoằng, Chính Truyền
- Viên Ngộ, Viên Tu
- Viên Tín, Nhân Hội
- Thông Kỳ, Thông Dung, Đạo Mân
- Thông Tú, Thông Vấn
- Thủy Nguyệt, Chuyết Chuyết
- Đạo An, Long Kỳ, Chân Phác
- Hành Sâm, Hành Trân
- Siêu Vĩnh, Như Trường, Siêu Cách
- Tử Dung, Tính Âm
- Hư Vân, Lai Quả
|
- Lương Giới
- Bản Tịch, Đạo Ưng, Cư Độn
- Huệ Hà, Đạo Phi
- Quán Chí, Duyên Quán, Cảnh Huyền
- Nghĩa Thanh, Đạo Khải
- Tử Thuần, Tự Giác, Pháp Thành
- Chính Giác, Thanh Liễu, Nhất Biện
- Huệ Huy, Tông Giác, Tăng Bảo
- Huệ Tộ, Trí Giám, Tăng Thế
- Minh Quang, Như Tịnh, Như Mãn
- Đức Cử, Hành Tú
- Huệ Nhật, Vân Tụ, Phúc Dụ
- Vĩnh Dư, Đại Chứng, Văn Thái
- Phúc Ngộ, Văn Tài, Tử Nghiêm
- Liễu Cải, Khế Bân, Khả Tùng, Văn Tải
- Tông Thư, Thường Trung, Thường Thuận
- Tuệ Kinh, Phương Niệm
- Nguyên Lai, Nguyên Cảnh
- Nguyên Hiền, Viên Trừng
- Đạo Ngân, Đạo Thịnh, Đạo Bái
- Minh Tuyết, Minh Phương, Minh Vu
- Hoằng Kế, Đại Văn, Đại Tâm
- Tịnh Nột, Tịnh Đăng, Tịnh Chu
- Hưng Kỳ, Hưng Trù, Hưng Long
- Trí Tiên, Trí Giáo
- Pháp Hậu, Giới Sơ
- Nhất Tín, Đỉnh Triệt
- Hư Vân , Thánh Nghiêm
|
- Văn Yển
- Trừng Viễn, Nhân Úc
- Đạo Thâm, Thủ Sơ
- Duyên Mật, Sư Khoan, Hạo Giám
- Quang Tộ, Huệ Viễn, Phong Tường
- Lương Nhã, Ứng Chân, Sư Giới
- Trọng Hiển, Thiện Tiêm
- Thừa Cổ, Hiểu Thông, Hoài Trừng
- Nghĩa Hoài, Thảo Đường, Truyền Tông
- Liễu Nguyên, Khế Tung, Giám Thiều
- Tông Bản, Pháp Tú
- Trọng Nguyên, Ứng Phu, Pháp Anh
- Sùng Tín, Thiện Bản, Thanh Mãn
- Duy Bạch, Tông Vĩnh, Tông Trách
- Hoài Thâm, Tự Như
- Tư Huệ, Tông Diễn
- Huệ Quang, Văn Tuệ, Đạo Xương
- Nguyên Diệu, Lương Khánh, Chính Thụ
- Thâm Tịnh
|
|
|
|
|
Cổng thông tin Phật giáo |
|
Sư họ là Thượng Quan, quê ở Tuyến Trúc, Hán Châu, tỉnh Tứ Xuyên. Lúc còn nhỏ, Sư xuất gia ở Thành Đô. Đến năm 16 tuổi, Sư thọ giới Cụ túc.[1][3]
Trong bốn năm đầu sau khi thọ đại giới, Sư đi vân du tham học khắp nơi. Cuối cùng Sư đến học nơi pháp hội của Vân Môn và làm thị giả ở đây. Vân Môn mỗi khi tiếp Sư đều gọi: "Thị giả Viễn!" Sư đáp: "Dạ." Vân Môn hỏi: "Ấy là gì?" Đó là pháp duy nhất Sư học tại Vân Môn. Sau 18 năm như vậy, Sư tỉnh ngộ.[1][4]
Sư từ giã Vân Môn định đi nơi khác, Vân Môn bảo: "Sao chẳng nói một câu hướng thượng?" Sư suy nghĩ. Vân Môn bắt ở thêm ba năm.[4]
Sau khi triệt ngộ, Sư đến trụ trì tại chùa Hương Lâm ở núi Thanh Thành (zh. 青城山), Ích Châu, tỉnh Tứ Xuyên và suốt 40 năm liền luôn chuyên tâm truyền bá Vân Môn tông, hướng dẫn học giả tu tập Thiền đạo. Người học đến đây tu tập rất đông.[3]
Có vị tăng hỏi Sư: "Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây sang?" Sư đáp: "Ngồi lâu sinh nhọc."[4]
Vào ngày 13 tháng 2 năm thứ 4 (987) niên hiệu Ung Hy (zh. 雍熙) , Sư bảo chúng: "Lão tăng 40 năm mới dồi thành một khối" Nói xong, Sư ngồi kết già thị tịch, thọ 80 tuổi.[3][4]