thiên y nghĩa hoài 天衣義懷 | |
---|---|
Hoạt động tôn giáo | |
Tôn giáo | Phật giáo |
Trường phái | Đại thừa |
Tông phái | Thiền tông |
Lưu phái | Vân Môn tông |
Sư phụ | Tuyết Đậu Trọng Hiển |
Đệ tử | Viên Chiếu Tông Bản Viên Thông Pháp Tú |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 993 |
Nơi sinh | Lạc Thanh, Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang |
Mất | |
Thụy hiệu | Chấn Tông Đại Sư |
Ngày mất | 25 tháng 9 năm 1064 |
Giới tính | nam |
Nghề nghiệp | tì-kheo |
Quốc tịch | Đại Tống |
Cổng thông tin Phật giáo | |
Một phần của loạt bài về |
Thiền sư Trung Quốc |
---|
Cổng thông tin Phật giáo |
Thiên Y Nghĩa Hoài (zh. 天衣義懷 tiānyī yìhuái, ja. Tenne Gie, năm 993 - ngày 25 tháng 9 năm 1064) là Thiền Sư Trung Quốc đời Tống, thuộc tông Vân Môn. Sư là pháp tử của Thiền Sư Tuyết Đậu Trọng Hiển nổi tiếng. Đệ tử nối pháp của Sư là Thiền Sư Viên Chiếu Tông Bản và Viên Thông Pháp Tú.
Sư được coi là người đặt móng cho sự trùng hưng của tông Vân Môn. Về tư tưởng, Sư có khuynh hướng chấp nhận đối với một số giáo lý của Tịnh Độ tông.[1]
Sư họ Trần, quê ở Lạc Thanh, Ôn Châu, tỉnh Triết Giang. Mẹ Sư nằm mộng thấy ngôi sao rơi vào nhà liền có thai Sư. Thuở bé, Sư theo cha đi đánh cá. Cha bắt được con cá nào thì Sư lén thả hết và an nhiên chịu đòn khi bị cha đánh.[2][3]
Khi lớn lên, được cha mẹ cho phép, Sư theo học với vị tăng trong quận và xuất gia trong khoảng thời gian niên hiệu Thiên Thánh (zh. 天聖, 1023-1031) tại chùa Cảnh Ðức. Một hôm, đang lúc đi trong chợ có một vị tăng lạ vỗ vai Sư nói: "Vân Môn, Lâm Tế." Sư nghe vậy liền đi đến yết kiến nhiều vị Thiền Sư đương thời như Pháp Hoa Chí Ngôn (zh. 法華志言), Diệp Huyện Quy Tỉnh... nhưng không được cơ duyên khế hợp.[2][3]
Sau, Sư đến tham vấn Thiền Sư Tuyết Ðậu Trọng Hiển (lúc này còn đang hoằng hoá tại Thuý Phong, chưa dời sang Tuyết Ðậu). Tuyết Ðậu hỏi Sư: "Ngươi tên gì?" Sư thưa: "Nghĩa Hoài." Tuyết Ðậu hỏi: "Sao chẳng đặt là Hoài Nghĩa?" Sư thưa: "Bây giờ sẽ được." Tuyết Ðậu hỏi: "Ai vì ngươi đặt tên?" Sư thưa: "Thụ giới đến bây giờ đã mười lăm năm." Tuyết Ðậu hỏi: "Ngươi hành cước đã rách bao nhiêu đôi giày?" Sư thưa: "Hoà thượng chớ có lừa người tốt." Tuyết Ðậu bảo: "Ta không xét tội lỗi, ngươi cũng không xét tội lỗi, ấy là sao?" Sư không đáp được, Tuyết Ðậu bảo: "Kẻ rỗng nói suông đi đi!"[4]
Sư vào thất, Tuyết Ðậu trông thấy bảo: "Thế ấy chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, thế ấy chẳng thế ấy cũng chẳng được." Sư suy nghĩ, Tuyết Ðậu đánh đuổi ra. Cứ như thế Sư bị ăn gậy bốn lần. Một hôm, Sư đang gánh nước bỗng nhiên đòn gánh gẫy đánh rơi cặp thùng. Sư nhân đây đại ngộ, liền làm bài kệ:
Tuyết Ðậu nghe kệ vỗ bàn khen hay.[3]
Sau khi đắc pháp, Sư đến trụ trì tại núi Thiên Y ở vùng Việt Châu, Triết Giang.[2]
Một hôm Sư thượng đường nói: "Nạp tăng nói ngang nói dọc mà chưa biết có con mắt trên trán." Một vị tăng bước ra hỏi: "Thế nào là con mắt trên trán?" Sư đáp: "Áo rách bày xương gầy, nhà lủng thấy trăng sao."[4]
Sư dạy chúng:
Sư trụ trì tất cả bảy đạo trường, giáo hoá rất nhiều người (cả trong và ngoài nước) và tông phong của Vân Môn rất thịnh. Về già, Sư có bệnh nên lui về ẩn cư tại am Sam Sơn (zh. 杉山庵) ở Trì Châu , tỉnh An Huy. Có đệ tử là Trí Tài ở Phật Nhật thuộc Lâm Bình thỉnh Sư về hầu hạ. Trí Tài đi Tô Thành chưa về, Sư sai người gọi về gấp. Vừa thấy Trí Tài về, Sư bảo: "Ðến giờ đi đây." và nói kệ:
Trí Tài hỏi: "Tháp trứng đã thành, thế nào là việc cứu kính?" Sư nắm tay chỉ đó và đến bên giường, xô gối rồi viên tịch. Bấy giờ là ngày 25 tháng 9 năm đầu niên hiệu Trị Bình (zh. 治平), Sư thọ 72 tuổi đời và 46 hạ lạp.Vua ban thuỵ hiệu là Chấn Tông Đại Sư (zh. 振宗大師).[2][3][4]
Bảng các chữ viết tắt |
---|
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên | pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán |