Chân Tịnh Khắc Văn (zh: 眞淨克文, ja: Shinjō Kokubun, 1025-1102), cũng được gọi là Bảo Phong Khắc Văn hay Lặc Đàm Khắc Văn, là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc phái Hoàng Long, Lâm Tế tông. Sư đắc pháp nơi Thiền sư Hoàng Long Huệ Nam và có nhiều đệ tử đắc pháp như: Đâu Suất Tùng Duyệt, Thọ Ninh Thiện Tư, Động Sơn Trí Càn...
Một phần của loạt bài về |
Thiền sư Trung Quốc |
---|
|
|
|
|
- Hi Thiên
- Đạo Ngộ, Duy Nghiễm
- Bảo Thông, Thiên Nhiên
- Sùng Tín , Đàm Thịnh
- Viên Trí, Đức Thành, Vô Học
- Tuyên Giám, Thiện Hội
- Khánh Chư, Lương Giới
- Nghĩa Tồn, Toàn Hoát, Sư Ngạn
- Văn Yển, Huệ Lăng, Sư Bị
|
|
|
|
- Huệ Nam
- Tổ Tâm, Khắc Văn, Thường Thông
- Ngộ Tân, Duy Thanh, Huệ Hồng, Tùng Duyệt
- Tuệ Phương, Trí Thông, Thủ Trác
- Thủ Trác, Giới Kham, Đàm Bí
- Tùng Cẩn, Hoài Sưởng
|
- Phương Hội
- Thủ Đoan, Pháp Diễn
- Phật Cần, Phật Nhãn, Phật Giám
- Tông Cảo, Thiệu Long, Huệ Viễn
- Đức Quang, Đàm Hoa, Đạo Tế
- Cư Giản, Thiện Trân, Hàm Kiệt
- Đại Quan, Hành Đoan, Huệ Khai
- Tổ Tiên, Sùng Nhạc, Đạo Sinh
- Nguyên Hi, Trí Cập, Huệ Tính
- Phổ Nham, Đạo Trùng, Sư Phạm
- Đức Huy, Hành Diễn, Đại Hân
- Đạo Long, Trí Ngu, Hành Di
- Diệu Luân, Tổ Khâm, Tổ Nguyên
- Huệ Đàm, Nhất Ninh, Tông Hâm
- Tuệ Bảo, Nguyên Diệu, Tịnh Giới
- Thanh Củng, Minh Bản, Tiên Đổ
- Duy Tắc, Nguyên Trường, Không Độ
- Thời Uỷ, Phổ Trì, Huệ Sâm
- Phổ Từ, Minh Tuyên, Bản Thụy
- Minh Thông, Pháp Hội
- Đức Bảo, Đức Thanh
- Châu Hoằng, Chính Truyền
- Viên Ngộ, Viên Tu
- Viên Tín, Nhân Hội
- Thông Kỳ, Thông Dung, Đạo Mân
- Thông Tú, Thông Vấn
- Thủy Nguyệt, Chuyết Chuyết
- Đạo An, Long Kỳ, Chân Phác
- Hành Sâm, Hành Trân
- Siêu Vĩnh, Như Trường, Siêu Cách
- Tử Dung, Tính Âm
- Hư Vân, Lai Quả
|
- Lương Giới
- Bản Tịch, Đạo Ưng, Cư Độn
- Huệ Hà, Đạo Phi
- Quán Chí, Duyên Quán, Cảnh Huyền
- Nghĩa Thanh, Đạo Khải
- Tử Thuần, Tự Giác, Pháp Thành
- Chính Giác, Thanh Liễu, Nhất Biện
- Huệ Huy, Tông Giác, Tăng Bảo
- Huệ Tộ, Trí Giám, Tăng Thế
- Minh Quang, Như Tịnh, Như Mãn
- Đức Cử, Hành Tú
- Huệ Nhật, Vân Tụ, Phúc Dụ
- Vĩnh Dư, Đại Chứng, Văn Thái
- Phúc Ngộ, Văn Tài, Tử Nghiêm
- Liễu Cải, Khế Bân, Khả Tùng, Văn Tải
- Tông Thư, Thường Trung, Thường Thuận
- Tuệ Kinh, Phương Niệm
- Nguyên Lai, Nguyên Cảnh
- Nguyên Hiền, Viên Trừng
- Đạo Ngân, Đạo Thịnh, Đạo Bái
- Minh Tuyết, Minh Phương, Minh Vu
- Hoằng Kế, Đại Văn, Đại Tâm
- Tịnh Nột, Tịnh Đăng, Tịnh Chu
- Hưng Kỳ, Hưng Trù, Hưng Long
- Trí Tiên, Trí Giáo
- Pháp Hậu, Giới Sơ
- Nhất Tín, Đỉnh Triệt
- Hư Vân , Thánh Nghiêm
|
- Văn Yển
- Trừng Viễn, Nhân Úc
- Đạo Thâm, Thủ Sơ
- Duyên Mật, Sư Khoan, Hạo Giám
- Quang Tộ, Huệ Viễn, Phong Tường
- Lương Nhã, Ứng Chân, Sư Giới
- Trọng Hiển, Thiện Tiêm
- Thừa Cổ, Hiểu Thông, Hoài Trừng
- Nghĩa Hoài, Thảo Đường, Truyền Tông
- Liễu Nguyên, Khế Tung, Giám Thiều
- Tông Bản, Pháp Tú
- Trọng Nguyên, Ứng Phu, Pháp Anh
- Sùng Tín, Thiện Bản, Thanh Mãn
- Duy Bạch, Tông Vĩnh, Tông Trách
- Hoài Thâm, Tự Như
- Tư Huệ, Tông Diễn
- Huệ Quang, Văn Tuệ, Đạo Xương
- Nguyên Diệu, Lương Khánh, Chính Thụ
- Thâm Tịnh
|
|
|
|
|
Cổng thông tin Phật giáo |
|
Sư họ Trịnh, quê ở Văn Hương, Thiểm Phủ. Mẹ sư mất sớm, dì kế tính tình lại khắt khe nên cha khuyên sư đi du phương. Sư đến Phục Châu, nghe Thiền sư Bắc Tháp Tư Quảng thuyết pháp, cảm động ở lại học và được đặt pháp danh là Khắc Văn. Năm lên 25 tuổi, sư thọ Cụ Túc giới.
Vào năm thứ 2 niên hiệu Trị Bình (1065), sư đến nhập hạ an cư trên núi Đại Quy Sơn. Tại đây, nhân nghe một vị tăng tụng câu kệ của Vân Môn Văn Yển, sư hoát nhiên đại ngộ, rồi đến tham vấn Hoàng Long Huệ Nam ở Tích Thúy và kế thừa dòng pháp của vị này. Trong số môn hạ của Hoàng Long, sư là người có cơ phong cao vời nên được xưng tán là Văn Quan Tây.
Vào năm thứ 5 niên hiệu Hy Ninh (1072), sư đến Cao An. Thể theo lời thỉnh cầu của vị Thái Thú Tiền Công, sư đến trú trì hai ngôi chùa là Động Sơn Thiền Tự và Thánh Thọ Thiền Tự trong vòng 12 năm. Sau đó, sư đến Kim Lăng, được Thư Vương quy y theo và thỉnh sư khai sơn Báo Ninh Tự. Sư còn được ban cho hiệu là Chơn Tịnh Đại Sư. Không bao lâu sau, sư lại quay trở về Cao An, lập ra Đầu Lão Am và sống nhàn cư tại đây.
Sau 6 năm, sư đến trú tại Quy Tông Tự trên Lô Sơn. Tiếp theo, thể theo lời thỉnh cầu của Tể Tướng Trương Thương Anh, sư lại chuyển đến trụ trì ở Lặc Đàm. Cùng với Hối Đường Tổ Tâm và Đông Lâm Thường Thông, sư đã tạo dựng nên cơ sở phát triển cho Phái Hoàng Long.
Niên hiệu Sùng Ninh năm đầu (1102), ngày 16 tháng 10, Sư lên toà ngồi thế kiết - già. Chúng thỉnh Sư thuyết pháp, Sư chỉ cười và nói bài kệ:
Năm nay bảy mươi tám
Tứ đại sắp rời rã
Gió lửa đã li tán
Sắp đi còn gì nói.
Nói xong, Sư viên tịch, thọ 78 tuổi, 52 hạ lạp. Sư có để lại tác phẩm:
- Vân Am Chơn Tịnh Thiền Sư Ngữ Lục (zh: 雲庵眞淨禪師語錄, 6 quyển).
- Vân Am Chơn Tịnh Hòa Thượng Hành Trạng (zh: 雲庵眞淨和尚行狀).
- Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
- Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
- Dumoulin, Heinrich:
- Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
- Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.