![]() Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | U-369 |
Đặt hàng | 25 tháng 8, 1941 |
Xưởng đóng tàu | Flensburger Schiffbau-Gesellschaft, Flensburg |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 492 |
Đặt lườn | 6 tháng 10, 1942 |
Hạ thủy | 17 tháng 8, 1943 |
Nhập biên chế | 15 tháng 10, 1943 |
Tình trạng |
|
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 53 519 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: | Không |
Chiến thắng: | Không |
U-369 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã không thực hiện chuyến tuần tra nào, nhưng chỉ thuần túy đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện trong biển Baltic. Sống sót qua cuộc xung đột, U-369 đầu hàng lực lượng Đồng Minh tại Kristiansand, Na Uy vào ngày 9 tháng 5, 1945, rồi bị đánh đắm ngoài khơi Ireland trong khuôn khổ Chiến dịch Deadlight vào ngày 30 tháng 11, 1945.
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8-276 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-369 được đặt hàng vào ngày 25 tháng 8, 1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Flensburger Schiffbau-Gesellschaft ở Flensburg vào ngày 6 tháng 10, 1942.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 17 tháng 5, 1943,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 15 tháng 10, 1943[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Ludwig Schaafhausen.[1]
U-369 chỉ đơn thuần đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện trong biển Baltic, thoạt tiên cùng Chi hạm đội U-boat 22, rồi được điều sang Chi hạm đội U-boat 11 từ ngày 1 tháng 3, 1945.[1][5]
Khi cuộc xung đột bước vào giai đoạn kết thúc, U-369 đầu hàng lực lượng Đồng Minh tại Kristiansand, Na Uy vào ngày 9 tháng 5, 1945, rồi đi đến căn cứ Scapa Flow trước khi được di chuyển sang Loch Ryan, Scotland vào ngày 29 tháng 5. Trong khuôn khổ Chiến dịch Deadlight, chiếc tàu ngầm bị đánh đắm ngoài khơi Ireland vào ngày 30 tháng 11, 1945, tại tọa độ 55°31′B 7°27′T / 55,517°B 7,45°T.[1][5]