![]() Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | U-373 |
Đặt hàng | 23 tháng 9, 1939 |
Xưởng đóng tàu | Howaldtswerke, Kiel |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 4 |
Đặt lườn | 8 tháng 12, 1939 |
Hạ thủy | 5 tháng 4, 1941 |
Nhập biên chế | 22 tháng 5, 1941 |
Tình trạng | Bị máy bay Không quân Hoàng gia Anh đánh chìm trong vịnh Biscay, 8 tháng 6, 1944[1][2] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [3] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [3] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[2][4] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 43 458 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
3 tàu buôn bị đánh chìm (10.263 GRT) |
U-373 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được mười ba chuyến tuần tra, đánh chìm được ba tàu buôn với tổng tải trọng 10.263 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-373 bị một máy bay ném bom B-24 Liberator của Không quân Hoàng gia Anh đánh chìm trong vịnh Biscay vào ngày 8 tháng 6, 1944.[1]
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
U-373 được đặt hàng vào ngày 23 tháng 9, 1939,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Howaldtswerke ở Kiel vào ngày 8 tháng 12, 1939.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 5 tháng 4, 1941,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 22 tháng 5, 1941[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Paul-Karl Loeser.[2]
Sau khi di chuyển từ Kiel đến cảng Horten, và sau đó đến cảng Trondhelm cùng thuộc Na Uy vào cuối tháng 7, 1941,[4] U-373 khởi hành từ Trondhelm vào ngày 9 tháng 7 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó băng qua khe GIUK giữa quần đảo Faroe và Iceland để hoạt động trong vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Nam Greenland.[6] Kết thúc chuyến tuần tra mà không đánh chìm được mục tiêu nào, chiếc tàu ngầm đi đến cảng Brest bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 2 tháng 10.[4]
U-373 xuất phát từ cảng Brest vào ngày 31 tháng 10 cho chuyến tuần tuần tra tiếp theo, và đã hoạt động tại khu vực giữa Đại Tây Dương, nhưng vẫn không tìm thấy mục tiêu nào giá trị. Con tàu quay trở về cảng Lorient cùng bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp vào ngày 21 tháng 11.[7]
U-373 thực hiện một chuyến tuần tra ngắn từ căn cứ Brest từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 3, 1944. [8]
Sau đó, chiếc U-boat khởi hành từ cảng Brest lần sau cùng vào ngày 7 tháng 6, 1944 cho chuyến tuần tra thứ mười ba, cũng là chuyến cuối cùng.[9] Sang ngày hôm sau, nó bị một máy bay ném bom B-24 Liberator thuộc Liên đội 224 RAF thả mìn sâu đánh chìm trong vịnh Biscay, tại tọa độ 48°10′B 05°31′T / 48,167°B 5,517°T. Bốn thành viên thủy thủ đoàn đã tử trận, và có 47 người sống sót. Sau khi đánh chìm chiếc U-boat, chiếc máy bay còn quay lại xả súng máy nhằm vào các xuồng cứu sinh trên biển. Chiếc Liberator này cũng đã đánh chìm tàu ngầm U-441 chỉ 20 phút sau đó.[2]
U-373 từng tham gia 16 bầy sói:
U-373 đã đánh chìm được ba tàu buôn với tổng tải trọng 10.263 GRT:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[10] |
---|---|---|---|---|
17 tháng 3, 1942 | Mount Lycabettus | ![]() |
4.292 | Bị đánh chìm |
22 tháng 3, 1942 | Thursobank | ![]() |
5.575 | Bị đánh chìm |
24 tháng 6, 1942 | John R. Williams | ![]() |
396 | Bị đánh chìm (mìn) |