Trang hay phần này đang được viết mới, mở rộng hoặc đại tu. Bạn cũng có thể giúp xây dựng trang này. Nếu trang này không được sửa đổi gì trong vài ngày, bạn có thể gỡ bản mẫu này xuống. Nếu bạn là người đã đặt bản mẫu này, đang viết bài và không muốn bị mâu thuẫn sửa đổi với người khác, hãy treo bản mẫu {{đang sửa đổi}}.
Trong thời kỳ cận đại – từ khoảng năm 1500 đến 1800 CN – các cường quốc châu Âu đã tiến hành khám phá và thuộc địa hóa nhiều khu vực trên khắp thế giới, đẩy mạnh giao lưu văn hóa và kinh tế giữa các khu vực. Đây là giai đoạn đánh dấu những bước tiến vượt bậc về trí tuệ, văn hóa và công nghệ ở châu Âu, được khơi nguồn bởi phong trào Phục hưng, Cải cách tôn giáo tại Đức dẫn tới sự ra đời của Tin Lành, Cách mạng khoa học và Thời kỳ Khai sáng. Vào thế kỷ 18, sự tích lũy kiến thức và công nghệ đã đạt tới điểm bùng phát, dẫn đến Cách mạng Công nghiệp, góp phần quan trọng vào Đại phân kỳ và mở ra thời kỳ hiện đại bắt đầu từ khoảng năm 1800 CN. Sự tăng trưởng nhanh chóng về năng lực sản xuất đã thúc đẩy hơn nữa thương mại quốc tế, quá trình thuộc địa hóa và liên kết các nền văn minh khác nhau thông qua toàn cầu hóa, cũng như củng cố vai trò thống trị của châu Âu xuyên suốt thế kỷ 19. Trong vòng 250 năm qua (bao gồm cả hai cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc), nhân loại đã trải qua sự gia tốc đáng kinh ngạc trên nhiều lĩnh vực như dân số, nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, tri thức khoa học, công nghệ, truyền thông, năng lực quân sự và sự suy thoái môi trường.
Việc nghiên cứu lịch sử thế giới dựa trên những hiểu biết từ nhiều lĩnh vực học thuật như lịch sử, khảo cổ học, nhân học, ngôn ngữ học và di truyền học. Nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quan dễ tiếp cận, các nhà nghiên cứu chia lịch sử nhân loại thành nhiều giai đoạn khác nhau theo các phương pháp phân kỳ.
Chi người vượn phương nam Australopithecine được cho là loài khỉ không đuôi đầu tiên đứng thẳng đi bộ bằng 2 chân, cuối cùng tiến hóa thành chi loài Homo.
Giống người hiện đại di cư ra khỏi châu Phi khoảng 70.000 năm trước, đến châu Âu khoảng 40.000 năm trước; và Đông Nam châu Á khoảng 50.000 năm trước.[3]
Sự lan rộng nhanh chóng của loài người đến Bắc Mỹ và châu Đại Dương đã diễn ra đỉnh điểm ở kỷ băng hà gần đây nhất, khi những vùng ôn đới của ngày nay đã từng vô cùng khắc nghiệt.
Tuy nhiên con người đã xâm chiếm gần như toàn bộ các vùng băng giá vào thời điểm cuối kỷ băng hà, khoảng 12.000 năm trước.
Các giống khỉ hình người khác như Người đứng thẳng (Homo erectus) đã sử dụng gỗ và đá làm công cụ trong cả thiên niên kỷ, theo thời gian các công cụ ngày càng trở nên tinh xảo. Tại một số thời điểm, con người bắt đầu sử dụng lửa để sưởi ấm và nấu ăn. Họ cũng bắt đầu phát triển ngôn ngữ vào giai đoạn Thời đại đồ đá cũ, và ý niệm về âm nhạc, phương thức chôn cất cho người chết và trang điểm cho người sống.
Sự thể hiện nghệ thuật đầu tiên có thể được tìm thấy dưới dạng bức tranh hang động và tác phẩm điêu khắc làm từ gỗ và xương. Trong thời điểm này, tất cả loài sống bằng săn bắt - hái lượm, và nói chung là du cư.
Các xã hội săn bắt - hái lượm có khuynh hướng rất nhỏ, mặc dầu trong một số trường hợp họ đã phát triển sự phân tầng xã hội và những tiếp xúc ở khoảng cách xa đã có thể diễn ra ở trường hợp những "xa lộ" bản xứ Australia.
Cuối cùng đa số các xã hội săn bắt - hái lượm đã phát triển, hay buộc phải bị hấp thu vào những tổ chức xã hội nông nghiệp lớn hơn. Những xã hội không hội nhập bị tiêu diệt, hay vẫn trong tình trạng cách ly, những xã hội săn bắt hái lượm nhỏ đó hiện vẫn tồn tại ở những vùng xa xôi.
Cuộc cách mạng nông nghiệp, bắt đầu từ khoảng 8000 năm TCN, sự phát triển của nông nghiệp đã gây ra thay đổi mạnh mẽ phương thức sống của con người. Nông nghiệp cho phép tập trung dân số dày hơn, theo thời gian nó chuyển biến thành các thành bang. Nông nghiệp cũng tạo ra lượng dư lương thực, cấp dưỡng cho những người không trực tiếp tham gia vào sản xuất lương thực. Sự phát triển nông nghiệp cho phép tạo ra các thành phố đầu tiên. Đây là các trung tâm thương mại, sản xuất thủ công nghiệp và quyền lực chính trị mà bản thân nó gần như không có sản xuất nông nghiệp. Sự hình thành các thành phố đi kèm là sự cộng sinh với các vùng nông thôn xung quanh nó, tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp, và cung cấp lại các sản phẩm thủ công nghiệp và nhiều cấp độ khác nhau về kiểm soát quân sự và bảo vệ lãnh thổ.[4][5][6]
Sự phát triển của các thành phố đồng nghĩa với sự đi lên của nền văn minh[7].
Nền văn minh xuất hiện sớm nhất là ở vùng Lưỡng Hà(3500 năm TCN)[8][9]. Tiếp sau là nền văn minh Ai Cập cổ đại dọc dòng sông Nin (3000 năm TCN)[10] và văn minh lưu vực sông Ấn ở thung lũng sông Ấn (hiện tại là Ấn Độ và Pakistan; 2500 năm TCN)[11][12]. Các xã hội này phát triển dựa trên một số đặc điểm thống nhất, gồm một chính quyền trung ương, một nền kinh tế và cấu trúc xã hội phức tạp, hệ thống ngôn ngữ và chữ viết phức tạp, nền văn hóa và tôn giáo khác biệt. Chữ viết là mấu chốt trong lịch sử phát triển của loài người, vì nó giúp chính quyền của các thành phố biểu đạt ý nghĩ dễ dàng hơn.
Nền văn minh trở nên phức tạp kéo theo làm phức tạp về tôn giáo, và dạng đầu tiên cũng bắt nguồn từ giai đoạn này[13][14][15]. Các thực thể như mặt trời, mặt trăng, Trái Đất, bầu trời và biển thường được tôn sùng[16]. Các đền thờ được xây dựng, phát triển, và dần hoàn thiện với hệ thống cấp bậc như linh mục,thầy tế và các chức danh khác. Điển hình của thời kỳ đồ đá này là có xu hướng thờ các vị thần mang hình dáng con người. Trong số những văn bản kinh tôn giáo lâu đời nhất còn tồn tại là các văn bản kim tự thápAi Cập (khoảng giữa 2400 đến 2300 TCN)[17]. Một số nhà khảo cổ học cho rằng, dựa trên dấu tích khai quật được ở ngôi đền Göbekli Tepe (Potbelly Hill) ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, có niên đại từ 11500 năm trước, tôn giáo hình thành trước khi xảy ra cuộc cách mạng nông nghiệp chứ không phải sau như suy nghĩ trước đó[18].
Thời đại đồ đồngLưu trữ 2022-10-25 tại Wayback Machine là một phần trong hệ thống ba thời đại (thời đại đồ đá mới, thời đại đồ đồng, thời đại đồ sắt), là thuật ngữ mô tả nền văn minh cổ đại từng tạo ảnh hưởng tại một số khu vực trên thế giới. Trong thời đại này những vùng đất màu mỡ đã sản sinh ra những thành bang và những nền văn minh này bắt đầu phát triển hưng thịnh ở một số nơi trên thế giới. Các nền văn minh đều nằm trên lưu vực ven sông bởi nước có vai trò thiết yếu trong một xã hội nông nghiệp, và các dòng sông cũng hỗ trợ cho nhu cầu giao thông vận tải được trở nên thuận tiện.
Lưỡng Hà là vùng đất thuộc vùng đồng bằng trăng lưỡi liềm, nơi khai sinh ra các nhà nước thành bang cổ đại. Vùng giao nhau của sông Tigris và sông Euphrates đã tạo nên một vùng đất màu mỡ và nguồn cung cấp nước cho tưới tiêu. Những nền văn minh nổi lên xung quanh hai con sông này là những nền văn minh lâu đời nhất không du canh- du cư được biết cho đến nay. Vùng Lưỡng Hà này sản sinh ra những nền văn minh như Sumerian, Akkadian, Assyrian, and Babylonian[19].
Sumerian, một trong những nền văn minh phát triển mạnh trong khu vực Lưỡng Hà là nền văn minh phức tạp đầu tiên được biết đến cho đến nay, phát triển từ một số thành bang vào thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Nền văn minh này phát minh ra gạch, bánh xe, công cụ cày bừa, và đồ gốm lần đầu tiên trong lịch sử.
Nền văn minh Sumerian nổi lên trong suốt thời kỳ Ubaid (Ubaid period) (6500-3800 TCN) và những thành phố cổ đại Uruk, Eridu phát triên ổn định trong giai đoạn đầu thời kỳ Ubaid. Tại thành phố cổ Eridu (miền nam Lưỡng Hà) những ngôi đền thờ nằm xen lẫn với các khu định cư cổ đại (khoảng 5000 năm TCN).
Nông nghiệp Sumerian phát triển trên lưu vực sông Tigris và sông Euphrates. Lương thực dư thừa dẫn đến phân công lao động, không cần phải ai cũng tham gia vào nông nghiệp, cuối cùng hình thành các tầng lớp xã hội. Trên là vua Sumerian, thầy tế, và quan chức chính quyền dưới là các người phụ việc, thương gia, nông dân, ngư dân. Đáy xã hội là những người nô lệ. Nô lệ thường là một phạm nhân, tù nhân, hoặc những người trong nợ nần.
Trong khu vực Lưỡng Hà, dạng chữ viết đầu tiên đã xuất hiện là chữ hình nêm (Cuneiform) có nguồn gốc từ hệ thống chữ tượng hình. Những hình ảnh đại diện của nó dần trở nên đơn giản hơn. Chữ hình nêm được viết trên đá phiến sét, những chữ cái được viết bằng cây sậy có tác dụng như bút trâm (Stylus). Cùng với sự thành lập của các trạm chuyển phát sự quản lý quốc gia trở nên dễ dàng hơn. Với người Sumerian chỉ những con cái nhà giàu, quý tộc mới được học chữ. Chúng được học tại một nơi gọi là Edubba, chỉ có con trai được học.
Các văn bản lịch sử văn hóa đã góp phần vào sự tồn tại của nền văn minh này. Một trong những văn bản cổ nhất trên thế giới, có tên Sử thi Gilgamesh, có nguồn gốc từ nền văn minh này.
Năm 2400 TCN, đế chế Akkadian được tạo dựng ở vùng Lưỡng Hà[20].
Vài thế kỷ tiếp sau, đế chế Assyria nổi lên, tiếp theo đó là đế chế của người Babylon.
Lưu vực sông Nin ở Bắc Phi là nơi ra đời nền văn minh Ai Cập cổ đại. Khoảng 6000 năm TCN, xuất hiện các vương quốc của xã hội tiền Ai Cập cổ đại (trước khi xuất hiện chế độ quân chủ ở Ai Cập) có kĩ năng trồng trọt và chăn thả gia súc.
Những hình ảnh ban đầu đó có thể quan sát được qua những biểu tượng trên đồ gốm của nền văn hóa Gerzeh, khoảng 4000 năm TCN, giống với chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại. Vữa hồ bắt đầu được sử dụng từ khoảng 4000 năm TCN, đồ gốm sứ bắt đầu được sản xuất từ khoảng 3500 năm TCN. Bệnh viện và trung tâm phục vụ y tế bắt đầu có từ 3000 năm TCN.
Bằng chứng khảo cổ cho thấy sự hiện diện của con người ở khu vực tây nam Ai Cập, gần biên giới với Sudan, khoảng 8000 năm TCN. Khoảng 7000-3000 TCN, khí hậu sa mạc Sahara ẩm ướt hơn ngày hôm nay, do đó cho phép các hoạt động canh tác trên đất mà bây giờ trở nên khô hạn. Biến đổi khí hậu bắt đầu từ sau năm 3000 TCN dẫn đến quá trình khô cằn dần dần trong khu vực. Do tác động của những biến đổi này, các cư dân của bộ lạc cổ đại tại sa mạc Sahara buộc phải di chuyển đến khu vực xung quanh sông Nin khoảng năm 2500 TCN. Ở đó, họ phát triển một nền kinh tế và xã hội nông nghiệp và hệ thống xã hội phức tạp hơn. Bộ tộc người từ lâu đã sinh sống hai bên bờ sông Nin cũng đã phát triển cộng đồng của họ một cách độc lập. Gia súc được nhập từ châu Á khoảng 7500-4000 năm TCN.
Người Ai Cập cổ đại được biết đến với nhiều thành tựu và phát minh trong lịch sử, bao gồm cả việc xây dựng các kim tự tháp khổng lồ, phẫu thuật cổ đại, khoa học toán học, và vận tải bằng thuyền.
Sự nổi lên của triều đại Ai Cập bắt đầu khi thống nhất Thượng và Hạ Ai Cập khoảng 3200 năm TCN, và kết thúc vào khoảng năm 340 TCN, bắt đầu từ triều đại Nhà Achaemenes trên lãnh thổ Ai Cập. Vương quốc của Ai Cập dẫn đầu bởi một vị vua nắm giữ cung điện Pharaon. Lúc đỉnh điểm, đế chế của ông trải dài từ đồng bằng sông Nin đến núi Gebel Barkal, Sudan.
Xã hội Ai Cập cổ đại tạo dựng sự cân bằng giữa con người với thiên nhiên, đặc biệt là dựa vào dòng sông Nin trong tưới tiêu nông nghiệp của họ. Quốc gia cổ đại này được biết qua những văn bản chữ tượng hình, công trình kim tự tháp, đền thờ và các lăng mộ dưới lòng đất; sử dụng xe ngựa chiến để tăng cường sức mạnh quân đội.
Có sự khác biệt lớn giữa các tầng lớp xã hội. Hầu hết các thành viên cộng đồng là nông dân, nhưng họ không được hưởng sản phẩm họ trồng được. Sản phẩm nông nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước, đền thờ, hoặc gia đình quý tộc có đất nông nghiệp. Chế độ nô lệ cũng tồn tại, nhưng chi tiết về họ trong xã hội Ai Cập cổ đại vẫn chưa rõ ràng[21].
Văn minh lưu vực sông Ấn xuất hiện khoảng 3300 năm TCN. Giai đoạn đầu xuất hiện trước 4000 năm TCN. Trung tâm của nền văn minh là nằm bao quanh sông Ấn (chủ yếu thuộc lãnh thổ của Pakistan, và một phần nhỏ là thuộc Afghanistan, Iran và Ấn Độ), mở rộng về phía đông đến lưu vực sông Ghaggar-Hakra[22] và ngược dòng vươn tới sông Hằng- sông Yamuna[23][24]. Phía tây mở rộng tới bờ biển Makran thuộc Balochistan (Pakistan), phía nam đến làng Daimabad, tỉnh Maharashtra, Ấn Độ.
Sự phát triển của nền văn minh được chia thành nhiều giai đoạn và đánh dấu sự phát triển của các thành phố trong tiểu lục địa Ấn Độ.[25].
Đây là nền văn minh đầu tiên xuất hiện hoạt động nông nghiệp ở Nam Á.
Lúa mì (tiểu mạch), đại mạch, và táo tàu (Jujube) được trồng khoảng 9000 năm trước Công nguyên; dê và cừu nuôi sau đó[26]. Nền nông nghiệp và chăn nuôi phát triển tại Mehrgarh khoảng 8000-6000 năm TCN[27][28]. Thời kỳ này cũng xuất hiện sự kiện thuần hóa loài voi.
Khoảng thiên niên kỷ thứ 5 trước Công nguyên, một cộng đồng nông nghiệp nằm rải rác ở khu vực Kashmir[29].
Tại các bãi khảo cổ của nền văn minh này người ta tìm thấy các vật dụng như giỏ, công cụ bằng đá, công cụ bằng xương, vòng cổ, vòng tay, hoa tai, vỏ động vật giáp xác biển, đá vôi, ngọc lam, sa thạch và đồng.
Nền văn minh này phát triển thịnh vượng các thành phố gồm: Harappa (3300 TCN), Dholavira (2900 TCN), Mohenjo-Daro (2500 TCN), Lothal (2400 TCN), và Rakhigarhi, và hơn 1000 thị trấn và ngôi làng nhỏ khác. Kiến trúc đô thị của nền văn minh này được xây bằng gạch, có hệ thống thoát nước bên đường, và nhà ở tập trung liền sát nhau (Terraced house). Các thành phố lớn có bề rộng khoảng một dặm, và có khoảng cách lớn giữa các thị trấn và nhiều khả năng là dấu hiệu của sự tập trung chính trị, hoặc dưới dạng của 2 thành bang, hoặc dưới dạng một đế chế không có thủ đô cố định hay có lẽ thay thế Harappa, Mohenjo-Daro, do bị phá hủy bởi lũ lụt không chỉ một lần[30].
Nền văn minh này cũng được biết đến với việc sử dụng hệ thống đo lườngthập phân cổ đại[31][32].
Vào cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, sự phát triển của văn minh lưu vực sông Indus bước vào thời kỳ Vệ Đà. Bộ sách thánh ca Vệ đàtiếng Phạn theo ước tính được soạn thảo từ 1700-1100 TCN, bộ sưu tập các bài thánh ca này trở thành nền tảng của Ấn Độ giáo và xu hướng của các xã hội tiền Ấn Độ khác.
Vào một thời điểm không chắc chắn khoảng cuối thế kỷ thứ VI TCN, có một người tiên phong tạo nên Ấn Độ giáo, tôn giáo mà còn tồn tại đến ngày nay.
Khởi phát nền văn minh Trung Quốc nằm cách không xa sông Hoàng Hà (dọc theo sông Trường Giang) do xung quanh khu vực tìm thấy nhiều di tích của thời Trung Quốc tiền sử.
Các nền văn minh thời đại đồ đá mới tìm thấy được ở Trung Quốc là văn minh Bành Đầu Sơn (Pengtoushan) (sông Trường Giang) và văn minh Bùi Lý Cương (Kebudayaan Peiligang), tất cả chúng đều xuất hiện khoảng 7000 năm TCN hoặc sớm hơn.
Giai đoạn văn hóa Bành Đầu Sơn khó xác định, kết quả các tính toán cho biến thiên từ 9000-5500 năm TCN, tại di chỉ của nền văn hóa này tìm thấy dấu tích của lúa gạo từ khoảng 7000 năm TCN.
Tại di chỉ Giả Hồ (Jiahu) cổ đại tìm thấy vài bằng chứng về việc trồng lúa. Một khám phá quan trọng tại Giả Hồ là cây sáo cổ có niên đại khoảng 7000-6000 năm TCN.
Văn minh Bùi Lý Cương là một trong những nền văn minh lâu đời nhất tại Trung Quốc có sản xuất đồ gốm.
Cả nền văn minh Bành Đầu Sơn và nền văn minh Bùi Lý Cương đều phát triển hoạt động trồng Kê, chăn nuôi, lưu trữ và phân phối thực phẩm. Bằng chứng khảo cổ cũng cho thấy sự hiện diện của các thợ thủ công, đày tớ.
Lối chữ hình vẽ (Pictogram) được cho là khởi đầu của hệ thống chữ viết Trung Quốc bắt nguồn từ các hoạt động nông nghiệp và chăn nuôi tại Trung Quốc.
Tại di chỉ Giả Hồ tìm thấy một số lối chữ hình vẽ, nó không được xem là có hệ thống chữ viết nhưng những ký hiệu đó dẫn đến hệ thống chữ viết[33].
Tại văn hóa Đại Mạch Địa (Damaidi), Ninh Hạ có hàng ngàn dấu chạm khắc trên vách đá có từ 6000-5000 năm TCN, mang những đặc trưng của lối chữ hình vẽ giống với mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, thánh thần, các khung cảnh đi săn và trông nom gia súc. Lối chữ hình vẽ tại đây gần như tương đồng với các ký tự Trung Quốc cổ đại được biết cho đến nay[34][35].
Văn hóa Bành Đầu Sơn được thay thế bởi văn hóa Ngưỡng Thiều (Yangshao culture) (5000-3000 năm TCN) ảnh hưởng của nền văn hóa này bao trùm phía Bắc Trung Quốc. Nền văn hóa này cũng đã thay thế nền văn hóa Long Sơn (Yangshao culture) khoảng 2500 năm TCN. Tại địa điểm khảo cổ di chỉ Tam Tinh Đôi (Sanxingdui) và văn hóa Nhị Lý Đầu (Erlitou culture) có bằng chứng của văn minh đồ đồng. Con dao bằng đồng với hình thái cổ xưa nhất (khoảng 3000 năm TCN) được tìm thấy tại di chỉ văn hóa Mã Gia Diêu (Majiayao culture) (thuộc tỉnh Cam Túc và tỉnh Thanh Hải).
Theo lịch sử Trung Quốc, sông Hoàng Hà được sử dụng cho tưới tiêu khoảng năm 2200 TCN thời vua Hạ Vũ, người đặt nền móng nhà Hạ. Nhà Hạ (khoảng 2100-1600 TCN) được đề cập là triều đại đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, nó được nhắc đến trong sử ký Tư Mã Thiên và Trúc thư kỉ niên[36][37]. Mặc dù có sự tranh cãi về triều đại thần thoại này, có vài bằng chứng khảo cổ học chứng minh cho sự tồn tại của nó. Tư Mã Thiên nói rằng triều đại này thành lập được thành lập khoảng năm 2200 TCN nhưng mốc thời gian này không thuyết phục. Hiện nay nhiều nhà khảo cổ học kết nối được sự tồn tại của triều đại nhà Hạ bởi cuộc khai quật ở tỉnh Hà Nam[38], nơi khám phá ra những nội thất đồ đồng khoảng năm 2000 TCN.
Triều đại lịch sử đầu tiên được công nhận là triều đại nhà Thương, khoảng năm 1500 TCN. Bằng chứng khảo cổ học cho sự tồn tại của triều đại nhà Thương là các đồ tạo tác bằng đồng và giáp cốt văn, mai rùa hay xương thú được khắc các ký tự Trung Quốc cổ, các văn tự này được tìm thấy ở lưu vực sông Hoàng Hà tại thủ đô Triều Ca nhà Thương. Các di tích mai rùa của nhà Thương có niên đại 1500 năm TCN, tính toán theo công nghệ Cacbon phóng xạ.
Thay thế nhà Thương là nhà Chu, vào khoảng thế kỷ XI TCN. Thời điểm kết thúc nhà Chu đã ra đời 2 nhà triết học nổi tiếng Trung Quốc là Khổng Tử (người thiết lập Khổng giáo) và Lão Tử (người thiết lập Đạo giáo[39].
Trong hang động Franchthi, phía đông nam Argolis, Hy Lạp có bằng chứng về hoạt động nông nghiệp của Hy Lạp cổ đại. Xấp xỉ 11000 năm TCN, canh tác ngũ cốc, các loạt hạt, lúa mì xảy ra đồng thời[40], trong khi yến mạch và đại mạch xuất hiện khoảng 10500 năm TCN; đậu Hà Lan và Lê thì khoảng 7300 năm TCN.
Khu vực định cư thời đồ đá mới rải rác khắp Hy Lạp cùng với hoạt động nông nghiệp và sản xuất đồ gốm. Những địa điểm nổi tiếng như Sesklo và Dimini, đã có đường giao thông, quảng trường. Nó là một ví dụ về không gian thành phố cổ trong lục địa châu Âu. Một địa điểm quan trọng khác là Dispilio nơi phát hiện ra một phiến đá cổ xưa với đường nét như văn bản cổ[41].
Văn minh Minoan là nền văn minh thời đại đồ đồng đầu tiên tại Hy Lạp.
Nền văn minh phát sinh trên đảo Crete và phát triển mạnh mẽ khoảng 2700-1500 năm TCN, nhưng thời điểm khởi đầu phát triển của nó xảy ra rất xa trước đó[42]. Con người bắt đầu sinh sống trên đảo Crete ít nhất từ 128.000 năm TCN, trong thời kỳ đồ đá cũ[43]. Các hoạt động nông nghiệp ngày lớn, phức tạp hơn, và dẫn đến nền văn minh dần được khởi tạo vào khoảng 5000 năm TCN[44]. Sự tồn tại của các nền văn minh này đã bị lãng quên đến khi nó được phát hiện vào đầu thế kỷ XX bởi nhà khảo cổ học người Anh Sir Arthur Evans. Will Durant nhìn nhận nền văn minh là "xâu chuỗi đầu tiên trong sợi dây lịch sử châu Âu"[45].
Nền văn minh Mycenae phát triển tại phía bắc của đảo Crete khoảng năm 1600 TCN, khi nền văn hóa Helladik trên đất liền Hy Lạp chuyển đổi dưới ảnh hưởng của nền văn hóa Minoan của đảo Crete.
Không giống như người Minoan người dựa vào thương mại. Nền văn minh Mycenae có cộng đồng thích đi xâm chiếm, thống trị bởi tầng lớp hiệp sĩ quý tộc Aristocracy.
Khoảng năm 1400 TCN, người dân Mycenae mở rộng phạm vi quyền lực của họ cho Crete do trung tâm của nền văn minh Minoan gặp phải vụ phun trào Minoa tại đảo Santorini, và họ chấp nhận hệ thống chữ viết Linear A để viết ngôn ngữ Hy Lạp cổ đại, hệ thống chữ viết phát triển trong suốt văn minh Mycenae gọi là Linear B[46].
Truyền thuyết về các cuộc xâm chiếm giữa các thành bang ở Hy Lạp không chỉ là Mycenae, thành bang Troy được đề cập đến trong sử thi Iliad như là một đối thủ của Mycenae. Vì chỉ có duy nhất nguồn sử liệu của Hómēros về lịch sử thành Troy và cuộc chiến tranh thành Troia nên có thể nó không có thật. Năm 1876, nhà khảo cổ học người Đức Heinrich Schliemann khám phá ra các di tích tại Hisarlik, vùng phía tây bán đảo Tiểu Á thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày này và công bố rằng nó là địa điểm của thành Troy. Chắc chắn rằng địa điểm của thành Troy được nhắc đến bởi Hómēros vẫn còn tiếp tục bị bàn cãi[47]
Nền văn minh Hy Lạp đã ảnh hưởng rất lớn đến các nền văn minh châu Âu sau đó, đặc biệt là nền văn minh La Mã. Trong Hy Lạp cổ các thành bang Athena, Sparta, Corinth, và Thebes có nền chính trị độc lập, và mối quan hệ ít căng thẳng với nhau. Nếu một thành phố không đủ nhu cầu lương thực để duy trì toàn bộ dân số, thì họ sẽ rời đi một phần để thiết lập một thành phố mới, thị trấn mới có vai trò thuộc địa, lệ thuộc vào thành phố ban đầu để cùng bảo vệ trước các mối đe dọa, trước các cuộc chiến với bên ngoài.
Một sự thay đổi lớn, được miêu tả bởi nhà tiền sử học Vere Gordon Childe như là một "cuộc cách mạng," đã diễn ra khoảng thiên niên kỷ 9 TCN với việc hình thành nghề nông. Mặc dầu nghiên cứu có khuynh hướng tập trung vào vùng đất Trăng lưỡi liềm màu mỡ ở Trung Đông, khảo cổ học ở châu Mỹ, Đông Á và Đông Nam Á cho thấy rằng những hệ thống nông nghiệp trồng cấy nhiều loại ngũ cốc khác nhau và sử dụng các loại gia súc khác nhau có thể đã phát triển hầu như đồng thời ở một số nơi.
Một bước tiến nữa ở nông nghiệp Trung Đông xảy ra với sự phát triển tưới tiêu có tổ chức và sử dụng lực lượng lao động chuyên biệt, bởi những người Sumer, bắt đầu vào khoảng 5.500 TCN. Đồng và sắt thay thế đá để trở thành công cụ trong nông nghiệp và chiến tranh. Tới tận lúc đó những xã hội nông nghiệp định cư hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào các công cụ đá. Ở Âu Á, các công cụ đồng đỏ và đồng thau, những đồ trang trí và vũ khí bắt đầu trở nên dồi dào vào khoảng năm 3000 TCN. Sau đồ đồng, vùng Đông Địa Trung Hải, Trung Đông và Trung Quốc bắt đầu sử dụng công cụ và vũ khí bằng sắt.
Những người dân châu Mỹ có thể không hề biết tới công cụ kim loại cho tới tầng Chavin năm 900 TCN. Chúng ta cũng biết rằng Moche có áo giáp, những con dao và bộ đồ ăn bằng kim loại. Thậm chí người Inca vốn ít dùng đồ kim loại cũng có những chiếc cày mũi kim loại, ít nhất sau khi chinh phục Chimor. Tuy nhiên, ít có những tìm kiếm khảo cổ học ở Peru và hầu như toàn bộ khipus (những vật sáng chế để ghi lại thông tin, dưới hình thức các nút thắt, người Incas từng sử dụng) đã bị đốt cháy khi diễn ra Cuộc chinh phục Peru của người Tây Ban Nha. Toàn bộ các thành phố vẫn đang được khám phá vào năm 2004. Một số khai quật khảo cổ cho thấy rằng có thể thép đã từng được chế tạo tại đây trước khi nó phát triển ở châu Âu.
Các vùng lưu vực ven sông trở thành những cái nôi của những nền văn minh đầu tiên như lưu vực sông Hoàng Hà ở Trung Quốc, sông Nin ở Ai Cập, và lưu vực sông Ấn ở Pakistan. Một số dân tộc du cư, như những người Thổ dân Australia và thổ dân Nam Phi ở phía Nam châu Phi, không biết tới nông nghiệp cho tới tận thời hiện đại.
Nhiều nhóm người không thuộc về các quốc gia trước 1800. Trong số những nhà khoa học, đã có sự bất đồng về thuật ngữ "bộ lạc" phải được sử dụng để miêu tả loại xã hội của những người sống trong đó. Những phần rộng lớn của thế giới có thể là lãnh thổ của những "bộ lạc" đó trước khi người châu Âu bắt đầu tiến hành thực dân hoá. Nhiều "bộ lạc" chuyển thành quốc gia khi họ bị đe dọa hay bị ảnh hưởng bởi các quốc gia. Ví dụ như Marcomanni và Lát via. Một số "bộ lạc", như Kassites và Mãn Châu, chinh phục các quốc gia và lại bị chúng đồng hoá.
Nông nghiệp đã tạo cơ hội cho các xã hội phức tạp hơn, cũng được gọi là những nền văn minh. Các cuộc gia và các thị trường xuất hiện. Các kỹ thuật cải thiện khả năng của con người nhằm kiểm soát thiên nhiên và phát triển giao thông và thông tin.
Nông nghiệp dẫn tới nhiều thay đổi lớn. Nó cho phép một xã hội đông đúc hơn rất nhiều, và nó tự tổ chức mình vào trong những quốc gia. Đã có nhiều định nghĩa được sử dụng cho thuật ngữ "quốc gia" Max Weber và Norbert Elias định nghĩa quốc gia là một tổ chức những người có một độc quyền về sự sử dụng hợp pháp vũ lực trong một vùng địa lý riêng biệt.
Những quốc gia đầu tiên xuất hiện ở Lưỡng Hà, Ai Cập cổ đại và lưu vực sông Ấn Độ vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 và đầu thiên niên kỷ thứ ba TCN. Ở Lưỡng Hà, có nhiều thành bang. Ai Cập cổ đại khởi đầu là một quốc gia không có các thành phố, nhưng nhanh chóng sau đó các thành phố xuất hiện. Một quốc gia cần một quân đội để thực hiện việc sử dụng vũ lực hợp pháp. Một quân đội cần một bộ máy quan liêu để duy trì nó. Ngoại trừ duy nhất là trường hợp văn minh lưu vực sông Ấn Độ vì thiếu bằng chứng về một lực lượng quân sự.
Các quốc gia đã xuất hiện ở Trung Quốc vào cuối thiên niên kỷ thứ ba đầu thiên niên kỷ thứ hai TCN. Các cuộc chiến tranh lớn nổ ra giữa các quốc gia ở Trung Đông. Hiệp ước Kadesh, một trong những hiệp ước hòa bình đầu tiên, được ký kết giữa người Hittites và Ai Cập cổ đại khoảng 1275 TCN. Vào thế kỷ thứ VI TCN, Hoàng đế Cyrus II (Cyrus Đại Đế) trỗi dậy kiến lập Đế quốc Ba Tư cường thịnh,[48] chinh phạt được các nước Media, Lydia và Babylon. Ai Cập cũng rơi vào tay của con trai ông là Hoàng đế Cambyses II.[49] Ngoài ra, lịch sử thế giới cổ đại cũng có những quốc gia hùng mạnh khác như đế quốc Maurya (thế kỷ thứ IV TCN), Trung Quốc (thế kỷ thứ III TCN), và Đế quốc La Mã (thế kỷ thứ I TCN).
Đụng độ giữa các đế quốc diễn ra vào thế kỷ thứ VIII, khi Khalip của Ả Rập (cai trị từ xứ Tây Ban Nha cho đến Iran) và nhà Đường bên Trung Quốc (cai trị từ Triều Tiên) đã đánh nhau trong hàng thập kỷ để giành quyền kiểm soát Trung Á. Rộng lớn hơn cả trong thời đại này là đế quốc Mông Cổ vào thế kỷ thứ XIII. Lúc ấy, đa số người dân ở châu Âu, châu Á, Bắc Phi đều thuộc vào các quốc gia. Cũng có các quốc gia ở México và tây Nam Mỹ. Các quốc gia tiếp tục kiểm soát ngày càng nhiều vùng lãnh thổ và dân chúng trên thế giới; vùng đất cuối cùng chưa có quốc gia bị các quốc gia chia sẻ với nhau theo Hiệp ước Berlin năm (1878).
Nông nghiệp cũng tạo nên và cho phép sự tích trữ lương thực thặng dư có thể dùng để cung cấp cho những người không dính dáng trực tiếp tới việc sản xuất lương thực. Sự phát triển của nông nghiệp cho phép sự xuất hiện của những thành phố đầu tiên. Chúng là những trung tâm của quốc gia và hầu như không tự mình sản xuất ra lương thực. Các thành phố là những kẻ ăn bám và được cung cấp lương thực từ những vùng nông thôn xung quanh, nhưng trái lại nó cung cấp sự bảo vệ quân sự ở nhiều mức độ khác nhau.
Các thành phố người Flemish và Đức nằm ở trung tâm các con đường thương mại ở Bắc Âu vào đầu thiên niên kỷ thứ 2. Ở mọi vùng, các thành phố chính phát triển ở những ngã ba đường dọc theo những con đường thương mại.
Những triết học và tôn giáo mới xuất hiện ở cả phía đông và phía tây, đặc biệt là vào khoảng thế kỷ thứ VI TCN. Cùng với thời gian, một tập hợp đa dạng các tôn giáo phát triển trên thế giới, với Ấn Độ giáo và Phật giáo ở Ấn Độ, Hỏa giáo ở Ba Tư là một trong số những đức tin lớn và sớm nhất. Ở phía đông, ba trường phái tư tưởng ngự trị Trung Quốc cho đến tận ngày nay. Chúng gồm Đạo giáo, Pháp gia, và Khổng giáo. Truyền thống Khổng giáo, sau này đạt được vị trí thống trị, không tìm cách tăng cường luật pháp, mà là tìm kiếm quyền lực và những tấm gương truyền thống cho đạo đức chính trị. Ở phía tây, truyền thống triết học Hy Lạp, được thể hiện qua các tác phẩm của Plato và Aristotle, đã được truyền bá ra khắp châu Âu và Trung Đông qua các cuộc chinh phục của vua Alexandros Đại Đế xứ Macedonia vào thế kỷ thứ IV TCN.
Các đế quốc vĩ đại dựa trên khả năng khai thác quá trình sáp nhập thông qua quân sự và việc thành lập những vùng định cư được bảo vệ để trở thành những trung tâm nông nghiệp. Hòa bình mà họ mang lại thúc đẩy thương mại quốc tế, mà nổi tiếng nhất là sự phát triển của con đường tơ lụa. Họ cũng phải đối mặt với các vấn đề thông thường, như những vấn đề liên quan tới việc duy trì những đội quân đông đảo và ủng hộ một chế độ quan liêu trung tâm. Các chi phí đó đều đổ lên đầu nông dân, trong khi những lãnh chúa đất ngày càng trốn tránh quyền kiểm soát từ trung ương và cũng không chịu nộp thuế cho nhà nước. Áp lực của các bộ lạc du cư ở biên giới cũng đẩy nhanh quá trình tan rã từ bên trong. Vương triều nhà Hán rơi vào nội chiến năm 220, trong khi Đế quốc La Mã bắt đầu giảm tập trung hóa và cũng bị phân chia vào thời gian đó.
Trên các vùng khí hậu ở Âu Á, châu Mỹ và Bắc Phi, các đế quốc lớn tiếp tục nổi lên và sụp đổ. Tại Ba Tư, Vương triều nhà Sassanid phát triển hùng mạnh, với các Hoàng đế Ardashir I, Shapur I, Shapur II và Khosrow I.[50]
Sự tan rã dần dần của đế quốc La Mã, đã tồn tại qua nhiều thế kỷ, từ sau thế kỷ thứ II, trùng khớp với sự mở rộng của Ki-tô giáo về phía tây từ Trung Đông. Phần phía tây của Đế quốc La Mã rơi vào tay của nhiều bộ lạc người Đức vào thế kỷ thứ V, và những xã hội đó dần phát triển thành một số chiến quốc, tất cả đều liên kết với Giáo hội Công giáo La Mã theo cách này hay cách khác. Phần còn lại của đế quốc La Mã ở phía đông Địa Trung Hải từ đó được gọi là đế quốc Đông La Mã. Nhiều thế kỷ sau, một sự hợp nhất có giới hạn đã phục hồi lại tây Âu thông qua sự thành lập đế quốc La Mã thần thánh, gồm một số quốc gia hiện thuộc Đức và Ý.
Tại Trung Quốc, các triều đại nổi lên rồi lại sụp đổ giống như nhau. Những người du cư từ phía bắc bắt đầu xâm chiếm từ thế kỷ thứ IV, cuối cùng chinh phục hầu như toàn bộ miền bắc Trung Quốc và lập nên nhiều tiểu quốc. Nhà Tuỳ tái thống nhất Trung Quốc năm 581, và dưới thời nhà Đường (618-907) Trung Quốc lần thứ hai trải qua thời cực thịnh của họ. Tuy nhiên, nhà Đường cũng tan vỡ và, sau khoảng nửa thế kỷ hỗn loạn, nhà bắc Tống thống nhất Trung Quốc năm 982. Tuy nhiên, áp lực từ các quốc gia du cư phía bắc ngày càng cấp bách. Toàn bộ miền bắc Trung Quốc rơi vào tay người Nữ Chân năm 1141 và đế quốc Mông Cổ đã chinh phục toàn bộ Trung Quốc năm 1279, cũng như hầu như toàn bộ vùng Âu Á, chỉ còn lại vùng tây Âu và trung Âu, Nhật Bản và Đông Nam Á- hoặc là lệ thuộc như Cao Ly hoặc là đánh thắng như Việt Nam.
Các xã hội rộng lớn cũng bắt đầu được dựng lên ở Trung Mỹ vào thời kỳ đó, người Maya và người Aztec ở Mesoamerica là những xã hội phát triển nhất. Khi nền văn hoá nguyên gốc của người Olmec dần tàn lụi, các thành bang lớn của người Maya chậm rãi vượt lên cả về số lượng và tầm ảnh hưởng, và văn hoá Maya phát triển ra khắp Yucatán và các vùng xung quanh. Đế quốc về sau này của người Aztec được xây dựng trên những nền văn hoá láng giềng và bị ảnh hưởng từ những dân tộc đã bị chinh phục, như người Toltec.
Hồi giáo, khởi đầu từ vùng Ả Rập vào thế kỷ thứ VII, cũng là một trong những thế lực đáng chú ý nhất trong suốt lịch sử thế giới, từ khởi đầu với một số ít tín đồ nó đã trở thành nền tảng cơ bản của nhiều đế quốc rộng lớn tại Ấn Độ, Trung Đông và Bắc Phi.
Ở vùng Đông Bắc Phi, Nubia và Ethiopia, cả hai nước từ lâu đã có quan hệ với vùng Địa Trung Hải, vẫn thuộc ảnh hưởng của Ki-tô giáo trong khi phần còn lại của châu Phi phía bắc đường xích đạo đã đổi sang Hồi giáo. Cùng với Hồi giáo là những kỹ thuật mới đã lần đầu tiên cho phép thương mại chính yếu vượt qua Sahara. Nguồn thuế từ thương mại đó dẫn tới sự thịnh vượng ở Bắc Phi và sự nổi lên của nhiều vương quốc vùng Sahel.
Thời kỳ này được ghi dấu bởi sự cải tiến kỹ thuật chậm chạp nhưng chắc chắn, với những sự phát triển có tầm ảnh hưởng quan trọng như bàn đạp yên ngựa và bừa (mouldboard plough) xuất hiện cách nhau chỉ vài thế kỷ.
Thời kỳ cận đại là giai đoạn nối tiếp sau thời Trung Cổ ở châu Âu, kéo dài đến khoảng năm 1789 hoặc 1800.[a] Một mốc chuyển giao phổ biến từ thời trung đại sang cận đại được xác định trong khoảng từ năm 1450 đến năm 1500, gắn liền với một loạt sự kiện quan trọng như sự thất thủ của Constantinople vào tay Đế chế Ottoman, sự phổ biến của kỹ thuật in ấn cùng với các chuyến thám hiểm của châu Âu đến châu Mỹ và dọc theo bờ biển châu Phi. Bên cạnh đó, bản chất của chiến tranh cũng đã có sự thay đổi khi quy mô và tổ chức của các lực lượng quân sự trên bộ lẫn trên biển ngày càng mở rộng, đi cùng với việc thuốc súng được sử dụng rộng rãi hơn.[52] Thời kỳ cận đại có ý nghĩa đặc biệt vì đây là khởi đầu của quá trình tiền toàn cầu hóa (proto-globalization),[53] sự xuất hiện ngày càng nhiều của các nhà nước quan liêu tập trung[54] và những hình thức sơ khai của chủ nghĩa tư bản.[51] Trong giai đoạn đó, các cường quốc châu Âu bắt đầu tiến hành thực dân hóa trên diện rộng thông qua các đế chế hàng hải: khởi đầu là Đế quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, sau đó là Đế quốc Pháp, Anh và Hà Lan.[55] Nguyên nhân dẫn tới sự trỗi dậy của châu Âu – được gọi là Đại phân kỳ – hiện vẫn là một chủ đề gây tranh luận trong giới sử học.[56]
Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu xuất hiện, trước tiên tại các nước cộng hòa miền bắc nước Ý và một số thành phố cảng ở châu Á.[57] Các quốc gia châu Âu áp dụng chủ nghĩa trọng thương thông qua việc thực thi những chính sách thương mại một chiều nhằm tối đa hóa lợi ích cho mẫu quốc, thường là bằng cách bóc lột các thuộc địa.[58] Bắt đầu từ cuối thế kỷ 15, người Bồ Đào Nha đã thiết lập nhiều trạm mậu dịch [en] trên khắp châu Phi, châu Á và Brazil để buôn bán các mặt hàng như vàng và gia vị, đồng thời tham gia vào hoạt động buôn bán nô lệ.[59] Bước sang thế kỷ 17, các công ty cổ phần khổng lồ được thành lập, tiêu biểu là Công ty Đông Ấn Anh vào năm 1600 (thường được coi là tập đoàn đa quốc gia đầu tiên trên thế giới) và Công ty Đông Ấn Hà Lan vào năm 1602.[60] Cùng thời điểm, tại nhiều khu vực thuộc phạm vi ảnh hưởng của châu Âu, chế độ nông nô dần suy tàn và cuối cùng biến mất – trong khi quyền lực của Giáo hội Công giáo cũng bị thu hẹp đáng kể.[61]
Thời đại Khám phá là giai đoạn đầu tiên mà Cựu Thế giới thực hiện các cuộc trao đổi quy mô lớn về văn hóa, vật chất và sinh học với Tân Thế giới. Nó bắt đầu vào cuối thế kỷ 15, khi Bồ Đào Nha và Vương quốc Castile tổ chức những chuyến thám hiểm tiên phong đến châu Mỹ, nơi mà Christopher Columbus lần đầu tiên đặt chân đến vào năm 1492. Quá trình hội nhập toàn cầu tiếp tục diễn ra với việc các cường quốc châu Âu thuộc địa hóa châu Mỹ, khởi nguồn cho Trao đổi Columbian (Columbian exchange): một sự giao lưu toàn diện giữa hai bán cầu Đông và Tây về thực vật, động vật, lương thực, dân cư (kể cả nô lệ), các bệnh truyền nhiễm và văn hóa.[62] Đây được xem là một trong những sự kiện toàn cầu quan trọng nhất trong lịch sử, có ảnh hưởng sâu sắc tới sinh thái và nông nghiệp.[63] Đặc biệt, những loại cây trồng mới được các nhà thám hiểm châu Âu mang về từ châu Mỹ vào thế kỷ 16 đã đóng góp đáng kể vào sự gia tăng dân số toàn cầu.[64]
Đế chế Ottoman nhanh chóng vươn lên bá chủ vùng Trung Đông sau khi chinh phục Constantinople vào năm 1453, đánh dấu sự cáo chung của Đế chế Byzantine.[65] Ba Tư nằm dưới sự cai trị của triều đại Safavid vào năm 1501,[66] kế tiếp là Afsharid vào năm 1736, Zand vào năm 1751 và Qajar vào năm 1794.[67] Nhà Safavid đã chọnHồi giáo Shia làm quốc giáo của Ba Tư, qua đó tạo cho quốc gia này một bản sắc riêng biệt so với các nước láng giềng theo Hồi giáo Sunni.[68] Cùng với đế chế Mughal ở Ấn Độ, Ottoman và Safavid được gọi là "các đế chế thuốc súng" nhờ sự tiên phong trong việc sử dụng hỏa khí.[69] Trong suốt thế kỷ 16, Ottoman đã chinh phục toàn bộ Bắc Phi – ngoại trừ Morocco – nơi nằm dưới sự cai trị của triều đại Saadi đương thời, rồi sau đó là triều đại Alawi vào thế kỷ 17.[70][71][72] Vào cuối thế kỷ 18, Đế chế Nga bắt đầu cuộc chinh phạt vùng Caucasus.[73] Trong khi đó, người Uzbek thay thế người Timur trở thành thế lực thống trị ở Trung Á.[74]
Thời kỳ cận đại ở châu Âu là một giai đoạn sôi động về tư duy và trí tuệ. Phong trào Phục hưng – được ví như sự "tái sinh" của văn hóa cổ điển, khởi nguồn tại Ý vào thế kỷ 14 và kéo dài đến thế kỷ 16[b] – bao gồm việc tái khám phá những thành tựu văn hóa, khoa học và công nghệ của thế giới cổ điển, cũng như đánh dấu sự trỗi dậy về kinh tế và xã hội của châu Âu.[76] Giai đoạn này cũng nổi bật với những thành tựu rực rỡ trong lĩnh vực nghệ thuật và văn học.[77] Một số kiệt tác tiêu biểu của thời cận đại bao gồm thơ ca của của Petrarch, Decameron của Giovanni Boccaccio, các bức họa và tác phẩm điêu khắc của Leonardo da Vinci và Albrecht Dürer (Dürer là một biểu tượng của Phục hưng phương Bắc).[77] Sau Phục hưng là Cải cách tôn giáo, một phong trào thần học và xã hội chống lại giáo quyền do Martin Luther khởi xướng tại Đức, dẫn tới sự ra đời của Cơ đốc giáo Kháng Cách.[78]
Ngay sau khi xâm chiếm châu Mỹ, người châu Âu đã sử dụng tiến bộ kỹ thuật của mình để chinh phục các dân tộc ở châu Á. Đầu thế kỷ XIX, nước Anh chiếm quyền kiểm soát tiểu lục địa Ấn Độ, Ai Cập và Bán đảo Malaysia; Người Pháp chiếm Đông Dương; trong khi người Hà Lan chiếm Đông Ấn. Người Anh cũng chiếm nhiều vùng khi ấy chỉ có những bộ tộc ở trình độ văn minh thời kỳ đồ đá mới, gồm Australia, New Zealand và Nam Phi, và, giống như trường hợp châu Mỹ, rất nhiều kẻ thực dân Anh bắt đầu di cư sang các vùng đó. Vào cuối thế kỷ mười chín, những vùng cuối cùng ở châu Phi còn chưa bị xâm chiếm bị các nước mạnh ở châu Âu đem ra chia chác với nhau.
Vào các thế kỷ XVIII và XIX, các liệt cườngĐông Âu phát triển cường thịnh. Trong suốt 149 năm kể từ khi Nga hoàng Aleksei I mất vào năm 1676 cho đến khi Nga hoàng Aleksandr I mất vào năm 1825, Vương triều nhà Romanov đã đưa đất nước từ một cường quốc địa phương non trẻ lên thành một "tên sen đầm của châu Âu" bất khả chiến baị. Trong khi Nga hoàng Aleksei I lên ngôi cùng thập niên với vua Pháp là Louis XIV thì ông chẳng được biết đến mấy tại Hoàng cung Versailles, thì Nga hoàng Aleksandr I đã đánh tan tác quân Pháp mà thẳng tiến vào kinh thành Paris. Nga hoàng Pyotr I (trị vì: 1682 - 1725) và Nữ hoàng Ekaterina II (trị vì: 1762 - 1796) đều được tôn vinh là "Đại Đế", với tài năng phi thường họ đã cống hiến không nhỏ đến sự phát triển cường thịnh của nước Nga. Nước Nga giành thắng lợi trong nhiều cuộc chiến tranh và Đại Công quốc Moskva vươn lên thành một "Đế quốc của toàn dân Nga".[79] Lực lượng Quân đội Nga trở nên hùng cường.[80] Đế quốc Nga cường thịnh đã dẹp tan tác mọi mối đe dọa trước đây từ quân Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman và quân Thụy Điển.[81] Danh tiếng của nước Nga vang xa trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, dù Nữ hoàng Elizaveta thất bại trong việc xâm lược nước Phổ.[82] Vua nước Phổ là Friedrich II cũng thoát khỏi chính sách bành trướng của nước Nga trong những năm tháng sau đó.[81]
Trong cùng thời gian đó, Vương quốc Phổ nhanh chóng phát triển hùng cường.[83] Nước Phổ trở thành một tấm gương sáng, phản ánh truyền thống châu Âu nhân văn: với một bộ máy hành chính chính phủ hữu hiệu, một chính sách khoan dung tôn giáo và một bộ máy dân sự không tham nhũng.[84] "Hào khí Phổ" trỗi dậy với niềm trung quân, niềm nhiệt huyết với nền quân sự, và niềm tự hào với sự phát triển của nền văn hóa đất nước. Các vua Friedrich I (trị vì: 1688 - 1713) và Friedrich Wilhelm I (trị vì: 1713 - 1740) phát triển đất nước, tham chiến trong các cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha và Đại chiến Bắc Âu, chiếm được những vùng đất quan trọng như Stettin và Tây Pomerania.[85] Vua Friedrich Wilhelm I ra sức xây dựng một lực lượng Quân đội Phổ hùng mạnh.[86] Vào ngày 16 tháng 12 năm 1740, tân vương Friedrich II (được tôn vinh là Friedrich Đại Đế hay Friedrich Độc Đáo) đem 27 nghìn quân chinh phạt được tỉnh Silesia của Đế quốc Áo.[87] Ông tiến hành những cải cách tiến bộ[88], và giữ vững được toàn bộ đất nước trong cuộc Chiến tranh Bảy năm chống cả liên quân Pháp - Áo - Nga - Thụy Điển.[89] Vị vua xuất chúng này được những người đương thời thán phục và các nhà sử học mê say.[87] Sau này, ông còn thiết lập "Liên minh các Vương hầu" thắng lợi, trở thành vị minh chủ của các tiểu quốc Đức trong Đế quốc La Mã Thần thánh.[90]
Thời kỳ này ở châu Âu chứng kiến Thời đại Lý tính dẫn tới cách mạng khoa học, làm thay đổi sự hiểu biết của chúng ta về thế giới và tạo cơ sở cho cách mạng công nghiệp, một sự chuyển đối căn bản của các nền kinh tế thế giới. Nó bắt đầu ở nước Anh và việc sử dụng những hình thức sản xuất mới như các nhà máy, sản xuất hàng loạt, và cơ giới hoá để sản xuất ra nhiều loại sản phẩm với tốc độ nhanh hơn và tốn ít nhân công hơn các cách thức sản xuất trước đó. Thời đại của lý trí cũng dẫn tới sự khởi đầu của dân chủ như chúng ta biết hiện nay, trong những cuộc cách mạng ở Mỹ và ở Pháp vào cuối thế kỷ XVIII. Dân chủ sẽ phát triển để có một ảnh hưởng sâu rộng lên các sự kiện thế giới và chất lượng cuộc sống. Trong thời cách mạng công nghiệp, kinh tế thế giới nhanh chóng dựa trên than, cũng như những hình thức giao thông mới, như đường sắt và tàu hơi nước, làm cho thế giới trở nên nhỏ hơn. Trong lúc ấy, ô nhiễm công nghiệp và những tổn hại đối với môi trường thiên nhiên, đã hiện diện từ khi khám phá ra lửa và sự bắt đầu của nền văn minh, đã được đẩy nhanh gấp hàng chục lần.
Thế kỷ 19 kéo dài thường được xem là bắt đầu từ Cách mạng Pháp năm 1789[c] và kéo dài cho đến khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ vào năm 1914.[93] Thời kỳ này chứng kiến sự lan rộng trên toàn cầu của Cách mạng Công nghiệp, được đánh giá là cuộc chuyển biến sâu sắc nhất của nền kinh tế thế giới kể từ Cách mạng Đồ đá mới.[94] Khởi phát ở Vương quốc Anh vào khoảng năm 1770, Cách mạng Công nghiệp đã áp dụng các phương thức sản xuất mới—nhà máy, sản xuất hàng loạt và cơ giới hóa—nhằm sản xuất nhiều loại hàng hóa đa dạng với tốc độ nhanh hơn và sử dụng ít nhân công hơn so với trước đây.[95]
Công nghiệp hóa đã nâng cao mức sống toàn cầu nhưng cũng gây ra những xáo trộn xã hội do mâu thuẫn nảy sinh giữa chủ nhà máy và người lao động về vấn đề tiền lương và điều kiện làm việc.[96] Song hành với quá trình công nghiệp hóa là sự xuất hiện của toàn cầu hóa hiện đại, biểu hiện qua sự gia tăng kết nối giữa các khu vực trên thế giới trong lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa.[97] Toàn cầu hóa hình thành từ đầu thế kỷ 19 và được thúc đẩy bởi những tiến bộ trong công nghệ vận tải như đường sắt và tàu hơi nước.[98]
Các đế quốc châu Âu dần mất đi nhiều vùng lãnh thổ tại Mỹ Latinh, nơi mà đã giành được độc lập vào thập niên 1820 thông qua các chiến dịch quân sự,[99] song họ lại mở rộng lãnh thổ sang những khu vực khác nhờ vào lợi thế vượt trội mà nền kinh tế công nghiệp mang lại so với phần còn lại của thế giới.[100] Vương quốc Anh giành quyền kiểm soát tiểu lục địa Ấn Độ, Miến Điện, Mã Lai, Bắc Borneo, Hồng Kông và Aden; Pháp chiếm lĩnh Đông Dương; trong khi Hà Lan củng cố sự cai trị tại Indonesia.[101] Bên cạnh đó, Vương quốc Anh cũng thực dân hóa Canada, Australia, New Zealand và Nam Phi – thu hút số lượng lớn người Anh di cư đến các vùng đất nói trên.[102]
Nga tiến hành thuộc địa hóa các vùng đất rộng lớn ở Siberia, vốn trước đây là những khu vực tiền nông nghiệp.[103] Hoa Kỳ hoàn tất quá trình mở rộng lãnh thổ về phía tây, thiết lập quyền kiểm soát từ bờ Đại Tây Dương đến bờ Thái Bình Dương.[104]
Tại châu Âu, sự cạnh tranh về kinh tế lẫn quân sự đã thúc đẩy quá trình hình thành và củng cố các quốc gia dân tộc, đồng thời những cộng đồng văn hóa dân tộc khác cũng bắt đầu tự xác định mình là các quốc gia riêng biệt với khát vọng về sự tự chủ cả về văn hóa và chính trị.[108]Chủ nghĩa dân tộc từ đó đã trở thành một yếu tố quan trọng đối với các dân tộc trên khắp thế giới trong thế kỷ 19 và 20[109] Trong làn sóng dân chủ đầu tiên diễn ra từ năm 1828 đến năm 1926, các thể chế dân chủ đã được kiến lập tại 33 quốc gia trên toàn thế giới.[110]
Phần lớn thế giới đã bãi bỏ chế độ nô lệ và chế độ nông nô trong thế kỷ 19.[111] Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 và kéo dài suốt thế kỷ 20,[112] phong trào đấu tranh đòi quyền bầu cử của phụ nữ ở nhiều quốc gia đã thành công trong việc mang lại quyền bỏ phiếu cho phái nữ,[113] cũng như họ bắt đầu có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với giáo dục và các ngành nghề vượt ra ngoài công việc nội trợ.[114]
Trước sự lấn át của các cường quốc châu Âu, một số quốc gia đã tiến hành những chương trình công nghiệp hóa và cải cách chính trị theo mô hình phương Tây.[115]Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản đã dẫn đến việc thiết lập một đế quốc thuộc địa, trong khi các cải cách tanzimat ở Đế quốc Ottoman lại không chặn được đà suy thoái của đế chế này.[116] Trung Quốc đã đạt được một số thành công với Phong trào Tự cường [en] nhưng đã bị tàn phá nặng nề bởi cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc – cuộc nội chiến đẫm máu nhất trong lịch sử, cướp đi sinh mạng của khoảng 20–30 triệu người trong giai đoạn từ năm 1850 đến năm 1864.[117]
Đến cuối thế kỷ 19, Hoa Kỳ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.[118] Trong Cách mạng Công nghiệp lần thứ hai, những tiến bộ công nghệ mới liên quan đến năng lượng điện, động cơ đốt trong và sản xuất dây chuyền lắp ráp đã giúp gia tăng đáng kể năng suất lao động.[119] Các đổi mới về công nghệ cũng mở ra những hướng đi mới cho việc biểu đạt nghệ thuật thông qua các phương tiện như nhiếp ảnh, ghi âm và điện ảnh.[120]
Thế kỷ 20 mở đầu với việc châu Âu đạt đến đỉnh cao của sự giàu có và quyền lực.[123] Phần lớn thế giới hoặc nằm dưới sự cai trị thuộc địa trực tiếp của châu Âu hoặc chịu ảnh hưởng gián tiếp từ các quốc gia bị Âu hóa sâu sắc như Hoa Kỳ và Nhật Bản.[124] Tuy nhiên, khi thế kỷ 20 tiếp diễn, hệ thống toàn cầu do các cường quốc đối địch chi phối đã phải đối mặt với những áp lực nặng nề và cuối cùng được thay thế bởi một cấu trúc linh hoạt hơn gồm các quốc gia dân tộc độc lập.[125]
Sự chuyển đổi nói trên được thúc đẩy bởi các cuộc chiến tranh có quy mô và mức độ tàn phá chưa từng có. Chiến tranh thế giới thứ nhất là một cuộc xung đột toàn cầu diễn ra từ năm 1914 đến năm 1918 giữa phe Hiệp ước do Pháp, Nga và Vương quốc Anh lãnh đạo với phe Liên minh Trung tâm do Đức, Áo-Hung, Đế chế Ottoman và Bulgaria lãnh đạo. Cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của khoảng 10 đến 22,5 triệu người và đánh dấu sự sụp đổ của bốn đế chế: Áo-Hung, Đức, Ottoman và Nga.[126] Việc áp dụng các công nghệ công nghiệp tiên tiến trong chiến tranh đã khiến những chiến thuật quân sự truyền thống trở nên lỗi thời.[127]
Những mâu thuẫn quốc gia dai dẳng, vốn trở nên trầm trọng hơn bởi cuộc khủng hoảng kinh tế trong thời kỳ Đại khủng hoảng, đã góp phần châm ngòi cho Chiến tranh thế giới thứ hai.[135] Trong cuộc chiến đó, phần lớn các quốc gia trên thế giới – bao gồm tất cả các cường quốc – đã tham gia vào hai liên minh quân sự đối lập: phe Đồng minh và phe Trục. Các cường quốc chủ chốt của phe Trục gồm Đức, Nhật Bản và Ý;[136] trong khi "Tứ cường" của phe Đồng minh gồm Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Hoa Dân Quốc.[137]
Chính phủ theo chủ nghĩa quân phiệt của Đức và Nhật Bản đã theo đuổi chính sách bành trướngđế quốc nhưng cuối cùng phải gánh chịu thất bại. Trong quá trình ấy, Đức tiến hành cuộc diệt chủngHolocaust, cướp đi sinh mạng của 6 triệu người Do Thái cùng hàng triệu người không phải Do Thái trên khắp các vùng lãnh thổ do Đức chiếm đóng ở châu Âu.[138] Tương tự, Nhật Bản cũng gây ra cái chết cho hàng triệu người Trung Quốc.[139] Thế chiến thứ hai còn đánh dấu lần đầu tiên vũ khí hạt nhân được sử dụng, mang đến sự tàn phá chưa từng có và cuối cùng dẫn tới việc Nhật Bản đầu hàng.[140] Ước tính tổng số người thiệt mạng trong cuộc chiến dao động từ 55 đến 80 triệu người.[141]
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc vào năm 1945, Liên Hợp Quốc được thành lập với hy vọng ngăn chặn các cuộc chiến tranh trong tương lai,[142] tương tự như cách Hội Quốc Liên được hình thành sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.[143] Liên Hợp Quốc đã đóng vai trò tiên phong trong phong trào nhân quyền – và vào năm 1948, tổ chức này thông qua Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền.[144] Đồng thời, một số quốc gia châu Âu đã hợp tác thành lập một tổ chức mà về sau phát triển thành cộng đồng kinh tế và chính trị bao gồm 27 quốc gia thành viên gọi là Liên minh châu Âu.[145]
Chiến tranh thế giới thứ hai đã mở đường cho sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản vào Đông Âu, Trung Âu, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Bắc Việt Nam và Cuba.[146] Nhằm ngăn cản làn sóng đỏ, Hoa Kỳ đã thiết lập một mạng lưới liên minh toàn cầu.[147] Liên minh lớn nhất trong số đó là NATO, được thành lập vào năm 1949 và dần phát triển lên tới 32 quốc gia thành viên.[148] Để đáp trả, vào năm 1955, Liên Xô cùng các đồng minh Đông Âu đã thành lập Hiệp ước Warsaw – một liên minh phòng thủ chung.[149]
Sau Đệ nhị thế chiến, Hoa Kỳ và Liên Xô vươn lên trở thành hai siêu cường toàn cầu.[150] Nhưng cả hai quốc gia đều mang trong mình những nghi kỵ và lo ngại sâu sắc về sự bành trướng hệ thống chính trị-kinh tế của nhau trên phạm vi toàn thế giới: chủ nghĩa tư bản từ phía Hoa Kỳ và chủ nghĩa cộng sản từ phía Liên Xô. Chính sự bất tín này đã châm ngòi cho Chiến tranh Lạnh, một cuộc đối đầu và chạy đua vũ trang kéo dài 45 năm giữa hai nước và các đồng minh của họ.[151]
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, việc chuẩn bị nhằm ngăn chặn hoặc đối phó với nguy cơ Chiến tranh thế giới thứ ba đã đẩy nhanh sự phát triển của các công nghệ vốn đã được thai nghén từ trước Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng chỉ được hiện thực hóa do nhu cầu cấp bách của cuộc chiến ý thức hệ này như máy bay phản lực,[156]tên lửa,[157] và máy tính.[158] Trong nhiều thập kỷ sau Thế chiến thứ hai, chính những tiến bộ nói trên đã mang lại các thành tựu vượt bậc bao gồm du lịch bằng máy bay phản lực;[156]vệ tinh nhân tạo với vô vàn ứng dụng,[159] nổi bật là GPS;[160] và Internet,[159] vốn trở thành một phương thức giao tiếp phổ biến từ những năm 1990.[161] Những phát minh này đã cách mạng hóa cách con người di chuyển, truyền tải ý tưởng và trao đổi thông tin.[162]
Các cải tiến kỹ thuật này đã mang lại những ảnh hưởng sâu rộng.[171] Trong thế kỷ 20, dân số thế giới đã tăng gấp bốn lần (đạt mức sáu tỷ người), trong khi tổng sản lượng kinh tế toàn cầu tăng gấp 20 lần.[172] Đến cuối thế kỷ 20, tốc độ gia tăng dân số bắt đầu chững lại, một phần nhờ vào nhận thức ngày càng cao về kế hoạch hóa gia đình và khả năng tiếp cận các biện pháp tránh thai tốt hơn.[173] Một số khu vực trên thế giới hiện có tỷ lệ sinh dưới mức thay thế [en].[174]
Các biện pháp y tế công cộng cùng những tiến bộ vượt bậc trong y khoa đã góp phần nâng cao đáng kể tuổi thọ trung bình toàn cầu, từ khoảng 31 tuổi vào năm 1900 lên hơn 66 tuổi vào năm 2000.[175][e] Vào năm 1820, 75% dân số thế giới sống với mức thu nhập dưới một đô la mỗi ngày, song tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn khoảng 20% vào năm 2001.[177] Cùng lúc đó, bất bình đẳng kinh tế lại gia tăng ở cả trong nội bộ từng quốc gia và giữa nước giàu với nước nghèo.[178] Tầm quan trọng của giáo dục công lập đã bắt đầu được nhấn mạnh từ thế kỷ 18 và 19[f], nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 thì hầu hết trẻ em trên toàn thế giới mới được hưởng nền giáo dục bắt buộc và miễn phí.[180][g]
Tại Trung Quốc, chính quyền Mao Trạch Đông đã triển khai các chính sách công nghiệp hóa và tập thể hóa trong khuôn khổ chiến dịch Đại nhảy vọt (1958–1962), dẫn đến nạn đói lớn (1959–1961) khiến 30–40 triệu người thiệt mạng.[182] Sau khi những chính sách trên bị bãi bỏ, Trung Quốc bước vào giai đoạn tự do hóa kinh tế và tăng trưởng nhanh chóng, với nền kinh tế tăng trưởng 6,6% mỗi năm từ 1978 đến 2003.[183]
Trong nhiều thập kỷ sau chiến tranh, quá trình phi thực dân hóa đã giúp những thuộc địa của các đế quốc châu Âu ở châu Phi, châu Á và châu Đại Dương giành được độc lập chính thức.[184] Tuy vậy, các quốc gia hậu thuộc địa tại châu Phi gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế, do phải đối mặt với những rào cản mang tính cấu trúc như sự phụ thuộc vào xuất khẩu àng hóa cơ bản thay vì hàng hóa chế biến.[185] Châu Phi hạ Sahara là khu vực chịu tác động nặng nề nhất bởi đại dịch HIV/AIDS vào cuối thế kỷ 20.[186] Bên cạnh đó, khu vực này còn phải hứng chịu mức độ bạo lực nghiêm trọng, điển hình là cuộc Chiến tranh Congo lần thứ hai (1998–2003), được xem là cuộc xung đột đẫm máu nhất kể từ Thế chiến thứ hai.[187]
Đầu thế kỷ 21 chứng kiến sự gia tăng của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế,[191] mang tới cả lợi ích lẫn rủi ro cho các nền kinh tế liên kết, mà cuộc Đại suy thoái vào cuối những năm 2000 và đầu những năm 2010 là minh chứng điển hình.[192] Công nghệ truyền thông phát triển mạnh mẽ, với sự phổ biến rộng rãi trên toàn cầu của điện thoại thông minh và mạng xã hội vào giữa thập niên 2010. Đến đầu thập niên 2020, các hệ thống trí tuệ nhân tạo đã phát triển đến mức vượt trội hơn con người trong nhiều tác vụ cụ thể.[193]
Ảnh hưởng của tôn giáo tiếp tục suy giảm ở nhiều quốc gia phương Tây, trong khi một số khu vực thuộc thế giới Hồi giáo chứng kiến sự trỗi dậy của các phong trào toàn thống.[194] Năm 2020, đại dịch COVID-19 đã gây ra sự gián đoạn lớn đối với thương mại toàn cầu, làm suy thoái nền kinh tế thế giới và thúc đẩy những thay đổi sâu sắc trong các quan niệm văn hóa.[195]
Việc nghiên cứu lịch sử loài người đã có một truyền thống lâu đời, với những tiền đề sơ khai được hình thành từ thời cổ đại khi con người cố gắng tạo ra những ghi chép toàn diện về lịch sử thế giới.[h] Phần lớn các nghiên cứu trước thế kỷ 20 đều tập trung vào lịch sử của từng cộng đồng và xã hội riêng lẻ sau thời kỳ tiền sử. Tuy nhiên, điều ấy đã thay đổi vào cuối thế kỷ 20 khi nỗ lực của các nhà nghiên cứu nhằm hợp nhất những câu chuyện đa dạng này vào một bối cảnh chung, truy nguyên nguồn gốc từ sự xuất hiện của những con người đầu tiên – trở thành một chủ đề nghiên cứu trọng tâm.[199] Sự chuyển biến trên không chỉ mở rộng góc nhìn lịch sử mà còn đặt ra những thách thức đối với chủ nghĩa trọng Âu và quan điểm thiên lệch phương Tây, vốn trước đây chi phối mạnh mẽ nền sử học hàn lâm.[200]
Giống như trong các ngành sử học khác, phương pháp phân tích các nguồn tư liệu văn bản để xây dựng nên những tường thuật và cách diễn giải về các sự kiện trong quá khứ đã đóng vai trò then chốt trong việc nghiên cứu lịch sử nhân loại. Song phạm vi bao quát của chủ đề này đặt ra một thách thức đặc thù là tổng hợp một câu chuyện vừa mạch lạc vừa toàn diện, trải dài qua nhiều nền văn hóa, khu vực và thời kỳ khác nhau, đồng thời phản ánh được những quan điểm đa dạng của từng cá nhân. Điều đó được thể hiện rõ qua cách tiếp cận liên ngành, kết hợp các tri thức từ nhiều lĩnh vực thuộc khoa học nhân văn và xã hội, sinh học và khoa học vật lý – chẳng hạn như các ngành lịch sử khác, khảo cổ học, nhân chủng học, ngôn ngữ học, di truyền học, cổ sinh vật học và địa chất học. Cách tiếp cận liên ngành nói trên đặc biệt quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử nhân loại trước khi chữ viết ra đời.[201]
Để cung cấp một cái nhìn tổng quan dễ tiếp cận, các nhà sử học thường chia lịch sử loài người thành các giai đoạn khác nhau, được sắp xếp dựa trên những chủ đề, sự kiện hoặc bước phát triển chính yếu đã định hình các các xã hội loài người theo dòng thời gian. Số lượng thời kỳ và khung thời gian của chúng phụ thuộc vào những chủ đề được lựa chọn và giai đoạn chuyển tiếp giữa các thời kỳ thường mang tính linh hoạt hơn so với những gì mà các sơ đồ phân kỳ truyền thống hay thể hiện.[202]
Một cách phân kỳ truyền thống có tầm ảnh hưởng sâu sắc trong giới học thuật châu Âu là sự phân chia lịch sử thành ba thời kỳ cổ đại, trung đại và hiện đại[203] được sắp xếp dựa trên các sự kiện lịch sử quan trọng chịu trách nhiệm cho những biến đổi to lớn trong cấu trúc chính trị, kinh tế và văn hóa để đánh dấu sự chuyển giao giữa các thời kỳ: trước tiên là sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã và sau đó là sự khởi đầu của thời kỳ Phục hưng.[204] Một cách phân kỳ khác chia lịch sử nhân loại thành ba giai đoạn dựa trên cách con người tương tác với thiên nhiên nhàm mục đích sản xuất hàng hóa. Sự chuyển đổi đầu tiên xảy ra khi nông nghiệp và chăn nuôi thay thế săn bắt hái lượm làm phương thức sản xuất lương thực chính. Cách mạng Công nghiệp được xem là dấu mốc cho sự chuyển đổi thứ hai. Một cách tiếp cận khác sử dụng mối quan hệ giữa các xã hội để phân chia lịch sử thế giới thành ba giai đoạn: sự thống trị của Trung Đông trước năm 500 TCN, sự cân bằng văn hóa giữa những nền văn minh Á-Âu cho đến năm 1500 CN và sự thống trị của phương Tây sau đó.[205] Việc phát minh ra chữ viết thường được sử dụng để phân định thời tiền sử và thời cổ đại, trong khi một cách phân chia khác dựa trên loại công cụ được sử dụng trong các thời kỳ Đồ đá, Đồ đồng và Đồ sắt.[206] Các nhà sử học tập trung vào tôn giáo và văn hóa xác định Thời đại Trục tâm là một bước ngoặt quan trọng đã đặt nền tảng tinh thần và triết học cho nhiều nền văn minh lớn trên thế giới. Một số sử gia còn kết hợp nhiều cách tiếp cận khác nhau để đưa ra một cách phân kỳ lịch sử tinh tế và toàn diện hơn.[207]
^Khoảng thời gian của thời kỳ cận đại có sự khác biệt tùy thuộc vào lĩnh vực lịch sử được nghiên cứu: trong các nghiên cứu văn học, nó thường được giới hạn từ khoảng năm 1500 đến năm 1700 – trong khi một số nhà sử học đại cương lại mở rộng khung thời gian từ năm 1300 đến năm 1800.[51]
^Một số học giả xác định niên đại của thời kỳ này muộn hơn, vào khoảng thế kỷ 15 và 16.[75]
^Một số nhà sử học sử dụng cách phân kỳ khác, cho rằng giai đoạn này bắt đầu sớm nhất từ năm 1750[91] hoặc muộn nhất là vào năm 1800.[92]
^Nền văn minh Aztec là một ngoại lệ, khi đã xác lập hệ thống giáo dục chính quy bắt buộc cho trẻ em từ sớm (vào thế kỷ 14).[179]
^Theo một ước tính, khoảng 90% dân số toàn cầu trong độ tuổi từ 15 đến 64 không được đi học vào năm 1870. Con số này đã giảm xuống chỉ còn 10% vào năm 2010.[181]
^Một số sử gia sử dụng các thuật ngữ lịch sử thế giới (world history) và lịch sử toàn cầu (global history) để chỉ tất cả những nỗ lực này, trong khi một số người khác lại hiểu hai thuật ngữ này theo nghĩa hẹp hơn, coi chúng chỉ là một trong số nhiều cách tiếp cận riêng biệt cạnh tranh lẫn nhau nhằm nghiên cứu sự phát triển của thế giới trên quy mô toàn cầu.[198]
^Chen, F.C. & Li, W.H. (2001). "Genomic divergences between humans and other hominoids and the effective population size of the common ancestor of humans and chimpanzees". Am J Hum Genet 68 (2): 444–456. doi:10.1086/318206. PMC 1235277. PMID 11170892
^"Human Evolution by The Smithsonian Institution's Human Origins Program". Human Origins Initiative. Smithsonian Institution. Truy cập 2010-08-30.[dead link]
^Stearns, Peter N.; William L. Langer (2001-09-24). The Encyclopedia of World History: Ancient, Medieval, and Modern, Chronologically Arranged. Houghton Mifflin Company. ISBN 0-395-65237-5.
^Chandler, T. Four Thousand Years of Urban Growth: An Historical Census. Lewiston, NY: Edwin Mellen Press, 1987.
^Modelski, G. World Cities: –3000 to 2000. Washington, DC: FAROS 2000, 2003.
^The very word "civilization" comes from the Latin civilis, meaning "civil," related to civis, meaning "citizen," and civitas, meaning "city" or "city-state."
^Ascalone, Enrico. Mesopotamia: Assyrians, Sumerians, Babylonians (Dictionaries of Civilizations; 1). Berkeley: University of California Press, 2007 (paperback, ISBN 0-520-25266-7).
^Lloyd, Seton. The Archaeology of Mesopotamia: From the Old Stone Age to the Persian Conquest.
^Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Grimal, Nicolas 1992
^Allchin, Bridget (1997). Origins of a Civilization: The Prehistory and Early Archaeology of South Asia. New York: Viking.
^Allchin, Raymond (ed.) (1995). The Archaeology of Early Historic South Asia: The Emergence of Cities and States. New York: Cambridge University Press.
^"The Sun God Ra and Ancient Egypt". Solarnavigator.net. Truy cập 2009-04-18.
^"The Sun God and the Wind Deity at Kizil," by Tianshu Zhu, in Transoxiana Webfestschrift Series I, Webfestschrift Marshak: Ēran ud Anērān, 2003.
^Marija Gimbutas. The Language of the Goddess, Harpercollins, 1989, ISBN 0-06-250356-1.
^Turner, Patricia, and Charles Russell Coulter, Dictionary of Ancient Deities, New York, Oxford University Press, 2001.
^Allen, James (2007). The Ancient Egyptian Pyramid Texts. Atlanta, Ga.: Scholars Press. ISBN 1-58983-182-9.
^Patrick Symmes, "History in the Remaking: a temple complex in Turkey that predates even the Pyramids is rewriting the story of human evolution," Newsweek, ngày 1 tháng 3 năm 2010, pp. 46–48.
^"Ubaid Civilization". Ancientneareast.tripod.com. Diakses ngày 18 tháng 4 năm 2009.
^Wells, H. G. (1921), The Outline of History: Being A Plain History of Life and Mankind, New York: Macmillan Company, hlm. 137.
^"Social classes in ancient Egypt". Digital Egypt for Universities, University College London. Diakses 11 Desember 2007.
^Possehl, G. L. (October 1990). "Revolution in the Urban Revolution: The Emergence of Indus Urbanization". Annual Review of Anthropology 19: 261—282. doi:10.1146/annurev.an.19.100190.001401. Diakses 6 Mei 2007.
^"Excavations at Alamgirpur", Indian Archaeology, A Review, Delhi: Archaeolical Survey of India, 1958-1959
^Leshnik, Lawrence S. (October 1968). "The Harappan "Port" at Lothal: Another View". American Anthropologist, New Series, 70 (5): 911—922. doi:10.1525/aa.1968.70.5.02a00070. JSTOR 669756.
^"Indus civilization". Encyclopædia Britannica. 2007. Diakses ngày 19 tháng 10 năm 2008.
^Gupta, Anil K. (10 Juli 2004), "Origin of Agriculture and Domestication of Plants and Animals Linked to Early Holocene Climate Amelioration", Current Science, 87, No. 1, Indian Academy of Sciences
^Baber, Zaheer (1996), The Science of Empire: Scientific Knowledge, Civilization, and Colonial Rule in India, State University of New York Press, ISBN 0-7914-2919-9
^Harris, David R.; Gosden, C. (1996), The Origins and Spread of Agriculture and Pastoralism in Eurasia: Crops, Fields, Flocks And Herds, Routledge, hlm. 385, ISBN 1-85728-538-7
^Harris, David R.; Gosden, C. (1996), The Origins and Spread of Agriculture and Pastoralism in Eurasia: Crops, Fields, Flocks And Herds, Routledge, hlm. 385, ISBN 1-85728-538-7.
^Encyclopædia Britannica. "Harappa (Pakistan) - Britannica Online Encyclopedia". Britannica.com. Diakses 9 Januari 2010.
^"Early Indian Culture—Indus Civilization". Diakses ngày 18 tháng 4 năm 2009.
^Kenoyer, Jonathan (1998). Ancient Cities of the Indus Valley Civilization. Oxford University Press.
^Li, X; Harbottle, Garman; Zhang Juzhong; Wang Changsui (2003). "The earliest writing? Sign use in the seventh millennium BC at Jiahu, Henan Province, China". Antiquity 77 (295): 31—44.
^"Asia-Pacific | Chinese writing '8,000 years old'". BBC News. 2007-05-18. Diakses ngày 18 tháng 4 năm 2009.
^"Carvings may rewrite history of Chinese characters". Xinhua online. 18 Mei 2007. Diakses 19 Mei 2007.
^"Public Summary Request Of The People's Republic Of China To The Government Of The United States Of America Under Article 9 Of The 1970 Unesco Convention". Bureau of Educational and Cultural Affairs, U.S. State Department. Diarsipkan dari aslinya tanggal ngày 15 tháng 12 năm 2007. Diakses 12 Januari 2008.
^"The Ancient Dynasties". University of Maryland. Diakses 12 Januari 2008
^Zaman Perunggu Tiongkok di National Gallery of Art
^Fairbank, John King and Merle Goldman (1992). China: A New History; Second Enlarged Edition (2006). Cambridge: MA; London: The Belknap Press of Harvard University Press. ISBN 0-674-01828-1
^T. Culen, Ritual pemakaman Mesolitik di Gua Franchthi, Yunani Antiquity.ac.uk
^"Ancient Greece: The National Archaeological Museum of Athens". Athens-greece.us. Diakses 17 Agustus 2012.
^Bentley, Subrahmanyam & Wiesner-Hanks 2015a, tr. 192, "The Italian city-states developed business procedures that have been described as early capitalism, although this was already business as usual in Asian port-cities such as Cambay, Calicut and Zayton."
^Christian 2011, tr. 383, "Because such crops flourished where more familiar staples grew less well, American crops effectively increased the area under cultivation and thereby made possible population growth in many parts of Afro-Eurasia from the 16th century onward."
^Bentley, Subrahmanyam & Wiesner-Hanks 2015a, tr. 469, "Having determined to build a distinctive Iranian, Shi'a identity for their empire, the Safavids forced the conversion of all Muslims in their territory to Shi'ism."
^Bentley, Subrahmanyam & Wiesner-Hanks 2015a, tr. 456, "In the Middle East, Central Asia and India, the Ottoman, Safavid and Mughal empires adopted firearms so enthusiastically that they are often referred to as 'gunpowder empires.'"
^Bulliet et al. 2015b, tr. 626, "In the region of the Caucasus Mountains, the third area of southward expansion, Russia first took over Christian Georgia (1786), Muslim Azerbaijan (1801), and Christian Armenia (1813) before gobbling up the many small principalities in the heart of the mountains."
^Bentley, Subrahmanyam & Wiesner-Hanks 2015a, tr. 358, "Political and military instability, succession disputes and conflicts with the Türkmen and Uzbeks vitiated these remarkable economic achievements, weakening the Timurids and making them vulnerable to the previously nomadic Uzbeks, who became the dominant force in Central Asia from the sixteenth to the early nineteenth century."
^Carter & Butt 2005, tr. 4, "Historians of different kinds will often make some choice between a long Renaissance (say, 1300–1600), a short one (1453–1527), or somewhere in between (the fifteenth and sixteenth centuries, as is commonly adopted in music histories)."
^Bulliet et al. 2015b, tr. 562, "Manchester's rise as a large, industrial city was a result of what historians call the Industrial Revolution, the most profound transformation in human life since the beginnings of agriculture."
^Bulliet et al. 2015b, tr. 563, "The first countries to industrialize grew rich and powerful, facilitating a second great wave of European imperialism in the 19th century."
^Kedar & Wiesner-Hanks 2015, tr. 206, "The half-century preceding the outbreak of World War I stands out as an era of European economic, political, and cultural dominance never achieved before and impossible to sustain at the end of the war."
^McNeill & Pomeranz 2015a, tr. 507–508, "Indeed, Japan's China war between 1931 and 1945 exacted the heaviest toll in lives of all colonial wars – between 10 and 30 million Chinese deaths being the best estimates available in the absence of official or authoritative statistics."
^Christian 2011, tr. 456–457, "The collapse of the Soviet Union was, as Mikhail Gorbachev understood, a failure to compete economically and technologically."
McNeill & Pomeranz 2015a, tr. 609, "But the crisis beginning in 2007, with the eddying effects of the subprime lending-induced financial crash, demonstrated how vital the health of the American economy remained for global growth and stability. Events and processes outside the United States continued to affect the internal politics and economics, and vice versa. The United States and the rest of the world were interconnected, and disengagement was impossible."
Kolbert 2023, "[T]he world's phosphorus problem [arising from the element's exorbitant use in agriculture] resembles its carbon-dioxide problem, its plastics problem, its groundwater-use problem, its soil-erosion problem, and its nitrogen problem. The path humanity is on may lead to ruin, but, as of yet, no one has found a workable way back."
Barro, Robert J.; Lee, Jong-Wha (2015). “2. International Comparisons of School Enrollment and Educational Attainment, 1870–2010”. Trong Barro, Robert J.; Yi, Chong-hwa (biên tập). Education Matters: Global Schooling Gains from the 19th to the 21st Century. Oxford University Press. ISBN978-0-19-937923-1.
Baumann, Martin (2010). “Hinduism”. Trong Melton, J. Gordon; Baumann, Martin (biên tập). Religions of the World: A Comprehensive Encyclopedia of Beliefs and Practices [6 volumes]. Bloomsbury. ISBN978-1-59884-204-3.
Bentley, Jerry H.; Ziegler, Herbert F. (2008). Traditions & Encounters: A Global Perspective on the Past: Volume II From 1500 to the Present (ấn bản thứ 4). McGraw Hill. ISBN978-0-07-333063-1.
Bristow, William (2023). “Enlightenment”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2024.
Cajani, Luigi (2013). “Periodization”. Trong Bentley, Jerry H. (biên tập). The Oxford Handbook of World History. Oxford University Press. ISBN978-0-19-968606-3.
Chakrabarti, Dilip K. (2004). “Introduction”. Trong Chkrabarti, Dilip K. (biên tập). Indus Civilization Sites in India: New Discoveries. Marg. tr. 10–13. ISBN978-81-85026-63-3.
Chrisp, Peter (2016). “Civilizations Develop”. Big History: Our Incredible Journey, from Big Bang to Now. Dorling Kindersley. ISBN978-0-241-22590-5. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2024.
Christian, David (2015a). “Introduction and Overview”. Trong Christian, David (biên tập). The Cambridge World History. Cambridge University Press. ISBN978-0-521-76333-2.
Geraghty, Paul (1994). “Linguistic Evidence for the Tongan Empire”. Trong Dutton, Tom (biên tập). Language Contact and Change in the Austronesian World. Trends in linguistics: Studies and monographs. 77. Gruyter. ISBN978-3-11-012786-7. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2016.
Goldhill, Simon (1997). “The Audience of Athenian Tragedy”. Trong Easterling, P. E. (biên tập). The Cambridge Companion to Greek Tragedy. Cambridge Companions to Literature series. Cambridge University Press. tr. 54–68. ISBN0-521-42351-1.
Hughes-Warrington, Marnie (2015). “Writing World History”. Trong Christian, David (biên tập). The Cambridge World History. Cambridge University Press. ISBN978-0-521-76333-2.
Kiernan, Ben; Lemos, T. M.; Taylor, Tristan S. biên tập (2023). The Cambridge World History of Genocide. 1: Genocide in the Ancient, Medieval and Premodern Worlds. Cambridge University Press. doi:10.1017/9781108655989. ISBN978-1-108-65598-9.
Koch, Paul L.; Barnosky, Anthony D. (2006). “Late Quaternary Extinctions: State of the Debate”. Annual Review of Ecology, Evolution, and Systematics. 37 (1): 215–250. doi:10.1146/annurev.ecolsys.34.011802.132415. S2CID16590668.
Kte'pi, Bill (2013). “Chronology”. Trong Ainsworth, James (biên tập). Sociology of Education: An A-to-Z Guide. Sage. ISBN978-1-5063-5473-6. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2023.
Lal, Vinay (2001). “The Mughal Empire”. Manas: India and its Neighbors. University of California, Los Angeles. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2015.
Lang, Michael (2015). “Evolution, Rupture, and Periodization”. Trong Christian, David (biên tập). The Cambridge World History. Cambridge University Press. ISBN978-0-521-76333-2.
Larson, G.; Piperno, D. R.; Allaby, R. G.; Purugganan, M. D.; Andersson, L.; Arroyo-Kalin, M.; Barton, L.; Climer Vigueira, C.; Denham, T.; Dobney, K.; Doust, A. N.; Gepts, P.; Gilbert, M. T. P.; Gremillion, K. J.; Lucas, L.; Lukens, L.; Marshall, F. B.; Olsen, K. M.; Pires, J. C.; Richerson, P. J.; Rubio De Casas, R.; Sanjur, O. I.; Thomas, M. G.; Fuller, D. Q. (2014). “Current Perspectives and the Future of Domestication Studies”. PNAS. 111 (17): 6139–6146. Bibcode:2014PNAS..111.6139L. doi:10.1073/pnas.1323964111. PMC4035915. PMID24757054.
Lewton, Kristi L. (2017). “Bipedalism”. Trong Fuentes, Agustín (biên tập). The International Encyclopedia of Primatology, 3 Volume Set. John Wiley & Sons. ISBN978-0-470-67337-9.
Manning, Patrick (2013). “Epistemology”. Trong Bentley, Jerry H. (biên tập). The Oxford Handbook of World History. Oxford University Press. ISBN978-0-19-968606-3.
McPherron, Shannon P.; Alemseged, Zeresenay; Marean, Curtis W.; Wynn, Jonathan G.; Reed, Denné; Geraads, Denis; Bobe, René; Béarat, Hamdallah A. (2010). “Evidence for Stone-tool-assisted Consumption of Animal Tissues Before 3.39 million Years Ago at Dikika, Ethiopia”. Nature. 466 (7308): 857–860. Bibcode:2010Natur.466..857M. doi:10.1038/nature09248. PMID20703305. S2CID4356816.
Naughton, John (2016). “The Evolution of the Internet: From Military Experiment to General Purpose Technology”. Journal of Cyber Policy. 1 (1): 5–28. doi:10.1080/23738871.2016.1157619. ISSN2373-8871.
Naver. 남북국시대 [North-South States Period]. Encyclopedia (bằng tiếng Hàn). Naver. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2016.
Northrup, David R. (2015). “From Divergence to Convergence: Centrifugal and Centripetal Forces in History”. Trong Christian, David (biên tập). The Cambridge World History. Cambridge University Press. ISBN978-0-521-76333-2.
O'Rourke, Kevin H.; Williamson, Jeffrey G. (2002). “When Did Globalization Begin?”. European Review of Economic History. 6 (1): 23–50. doi:10.1017/S1361491602000023. S2CID15767303.
Stutz, Aaron Jonas (2018). “Paleolithic”. Trong Trevathan, Wenda; Cartmill, Matt; Dufour, Darna; Larsen, Clark (biên tập). The International Encyclopedia of Biological Anthropology. Hoboken, NJ: John Wiley & Sons. tr. 1–9. doi:10.1002/9781118584538.ieba0363. ISBN978-1-118-58442-2. S2CID240083827. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2022.
The Association of Korean History Teachers (2005). Korea Through the Ages; Volume One: Ancient. The Center for Information on Korean Culture, The Academy of Korean Studies. ISBN978-89-7105-545-8.
Wengrow, David (2011). “The Invention of Writing in Egypt”. Before the Pyramids: Origin of Egyptian Civilization. Oriental Institute of the University of Chicago.
Wheeler, Mary E. (1971). “Empires in Conflict and Cooperation: The "Bostonians" and the Russian-American Company”. Pacific Historical Review. 40 (4): 441. JSTOR3637703.
Whitecotton, Joseph W. (1977). The Zapotecs: Princes, Priests, and Peasants. University of Oklahoma Press.
Wragg-Sykes, Rebecca (2016). “Humans Evolve”. Big History: Our Incredible Journey, from Big Bang to Now. Dorling Kindersley. ISBN978-0-241-22590-5. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2024.
Xue, Zongzheng (1992). A History of Turks. Chinese Social Sciences Press.