U-381 (tàu ngầm Đức)

Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-381
Đặt hàng 16 tháng 10, 1939
Xưởng đóng tàu Howaldtswerke, Kiel
Số hiệu xưởng đóng tàu 12
Đặt lườn 26 tháng 4, 1941
Hạ thủy 14 tháng 1, 1942
Nhập biên chế 25 tháng 2, 1942
Tình trạng Mất tích tại vùng biển phía Nam Greenland từ ngày 10 tháng 5, 1943 [1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [2]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [2]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [2]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [2]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [2]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [2]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [2]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [2]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [2]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [2]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[1][3]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 43 526
Chỉ huy:
  • Đại úy Wilhelm-Heinrich Graf von Pückler und Limpurg
  • 25 tháng 2, 1942 – 10 tháng 5, 1943
Chiến dịch:
  • 3 chuyến tuần tra:
  • 1: 1 tháng 10 – 21 tháng 11, 1942
  • 2: 19 tháng 12, 1942 – 19 tháng 2, 1943
  • 3: 31 tháng 3 – 10 tháng 5, 1943
Chiến thắng: Không

U-381 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được ba chuyến tuần tra nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào trước khi bị mất tích trong Đại Tây Dương về phía Nam Greenland từ ngày 10 tháng 5, 1943.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-381 được đặt hàng vào ngày 23 tháng 9, 1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng HowaldtswerkeKiel vào ngày 26 tháng 4, 1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 14 tháng 1, 1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 25 tháng 2, 1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Wilhelm-Heinrich Graf von Pückler und Limpurg.[1]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 5, U-381 được điều sang Chi hạm đội U-boat 7 từ ngày 1 tháng 10, 1942 để hoạt động trên tuyến đầu.[1]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

U-381 khởi hành từ Kiel vào ngày 1 tháng 10 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó băng qua khe GIUK giữa các quần đảo ShetlandFaroe để vòng qua quần đảo Anh và hoạt động trong vùng biển giữa Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Nam Greenland.[5] Không tìm thấy mục tiêu nào phù hợp, nó kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng St. Nazaire bên bờ Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 21 tháng 11.[3]

Chuyến tuần tra thứ hai

[sửa | sửa mã nguồn]

U-381 vẫn không may mắn hơn trong chuyến tuần tra tiếp theo, kéo dài từ ngày 19 tháng 12, 1942 đến ngày 19 tháng 2, 1943, cùng xuất phát và kết thúc tại căn cứ St. Nazaire. Chiếc tàu ngầm hướng xuống phía Nam để hoạt động trong Đại Tây Dương tại lối tiếp cận eo biển Gibraltar.[6] Ở phía Tây Bồ Đào Nha vào ngày 14 tháng 2, U-381 bị một thủy phi cơ PBY Catalina thuộc Liên đội 202 Không quân Hoàng gia Anh tấn công ở vị trí ngoài khơi mũi Carvoeiro về phía Bắc Lisbon. Cuộc tấn công này, nguyên được cho là đã đánh chìm tàu ngầm U-620, thực ra nhắm vào U-381 nhưng nó thoát được mà không bị hư hại. [6]

Chuyến tuần tra thứ ba – Mất tích

[sửa | sửa mã nguồn]

U-381 tiếp tục khởi hành từ cảng St. Nazaire vào ngày 31 tháng 3 cho chuyến tuần tra thứ ba, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động tại khu vực Trung tâm Bắc Đại Tây Dương.[7] Nó báo cáo về căn cứ lần sau cùng vào ngày 9 tháng 5 ở vị trí về phía Đông Nam Greenland, tại tọa độ khoảng 51°30′B 36°00′T / 51,5°B 36°T / 51.500; -36.000. Sau đó nó mất tích mà không rõ nguyên nhân, và được cho là đã mất vào khoảng ngày 21 tháng 5 với tổn thất toàn bộ 47 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu.[1]

Trước đây một số nguồn cho rằng U-381 bị đánh chìm vào ngày 19 tháng 5, 1943 trong Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Nam mũi Farewell, Greenland, tại tọa độ 54°41′B 34°45′T / 54,683°B 34,75°T / 54.683; -34.750, bởi mìn sâu thả từ các tàu khu trục HMS Duncantàu corvette HMS Snowflake, vốn đang hộ tống cho Đoàn tàu SC130 trong hành trình từ Halifax, Canada đến Liverpool, Anh.[8] Cuộc tấn công này thật ra nhắm vào các tàu ngầm U-304U-636, cả hai đều đã chạy thoát mà không bị hư hại.[1]

"Bầy sói" tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

U-381 từng tham gia chín bầy sói:

  • Panther (11 – 20 tháng 10, 1942)
  • Veilchen (20 tháng 10 – 5 tháng 11, 1942)
  • Delphin (26 tháng 12, 1942 – 14 tháng 2, 1943)
  • Adler (11 – 13 tháng 4, 1943)
  • Meise (13 – 27 tháng 4, 1943)
  • Star (27 tháng 4 – 4 tháng 5, 1943)
  • Fink (4 – 6 tháng 5, 1943)
  • Inn (11 – 15 tháng 5, 1943)
  • Donau 1 (15 – 21 tháng 5, 1943)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-381”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  3. ^ a b Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-381”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  4. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  5. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-381 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  6. ^ a b Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-381 (second patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-381 (third patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  8. ^ Dimbleby (2016), tr. 418.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Dimbleby, Jonathan (2016). The Battle of the Atlantic. New York: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-049585-5.
  • Edwards, Bernard (1996). Dönitz and the Wolf Packs – The U-boats at War. Cassell Military Classics. tr. 212. ISBN 0-304-35203-9.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-381”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  • Hofmann, Markus. “U 381”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Neia và màn lột xác sau trận chiến bảo vệ thành Loyts
Neia và màn lột xác sau trận chiến bảo vệ thành Loyts
Neia và màn lột xác sau trận chiến bảo vệ thành Loyts, gián điệp do "Nazarick cộng" cài vào.
3 nhóm kỹ năng kiến thức bổ ích giúp bạn trở thành một ứng viên sáng giá
3 nhóm kỹ năng kiến thức bổ ích giúp bạn trở thành một ứng viên sáng giá
Hiện nay với sự phát triển không ngừng của xã hội và công nghệ, việc chuẩn bị các kỹ năng bổ ích cho bản thân
Lịch sử và sự kiện đáng nhớ của Fontaine
Lịch sử và sự kiện đáng nhớ của Fontaine
Trước tiên nói về ảo thuật gia vĩ đại "Parsifal", đây là danh xưng gọi hai chị em ảo thuật gia, xuất thân từ Fleuve Cendre
Nhân vật Geto Suguru - Jujutsu Kaisen
Nhân vật Geto Suguru - Jujutsu Kaisen
Geto Suguru (夏げ油とう傑すぐる Getō Suguru?, Hạ Du Kiệt) là một phản diện trong bộ truyện Chú thuật hồi chiến và tiền truyện Chú thuật hồi chiến - Trường chuyên chú thuật Tokyo