U-380 (tàu ngầm Đức)

Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-380
Đặt hàng 16 tháng 10, 1939
Xưởng đóng tàu Howaldtswerke, Kiel
Số hiệu xưởng đóng tàu 11
Đặt lườn 1 tháng 10, 1940
Hạ thủy 5 tháng 11, 1941
Nhập biên chế 22 tháng 12, 1941
Tình trạng Bị đánh chìm trong đợt không kích tại cảng Toulon, Pháp, 11 tháng 3, 1944[1][2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [3]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [3]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [3]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [3]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [3]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [3]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [3]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [3]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [3]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [3]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[2][4]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 47 957
Chỉ huy:
  • Đại úy Josef Röther
  • 22 tháng 12, 1941 – tháng 11, 1943
  • Đại úy Albrecht Brandi
  • tháng 12, 1943 – 11 tháng 3, 1944
Chiến dịch:
  • 11 chuyến tuần tra:
  • 1: 4 tháng 8 – 7 tháng 10, 1942
  • 2: 5 – 19 tháng 11, 1942
  • 3: 28 tháng 11 – 23 tháng 12, 1942
  • 5: 1 – 6 tháng 2, 1943
  • 6: 10 tháng 3 – 5 tháng 4, 1943
  • 7: 5 – 16 tháng 5, 1943
  • 8: 7 tháng 6 – 6 tháng 7, 1943
  • 9: 11 tháng 8 – 7 tháng 9, 1943
  • 10: 30 tháng 9 – 11 tháng 10, 1943
  • 11: 28 tháng 10 – 11 tháng 11, 1943
  • 12: 20 tháng 12, 1943 – 21 tháng 1, 1944
Chiến thắng:
  • 2 tàu buôn bị đánh chìm
    (14.063 GRT)
  • 1 tàu buôn tổn thất toàn bộ
    (7.178 GRT)
  • 1 tàu buôn bị hư hại
    (7.191 GRT)

U-380 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó dành phần lớn quãng đời phục vụ để hoạt động tại khu vực Địa Trung Hải, thực hiện được mười hai chuyến tuần tra, đánh chìm hoặc gây tổn thất toàn bộ cho ba tàu buôn với tổng tải trọng 21.241 GRT cùng gây hư hại cho một tàu buôn khác tải trọng 7.191 GRT. Đang khi neo đậu tại cảng Toulon, Pháp, U-380 bị đánh chìm do trúng bom trong một cuộc không kích của lực lượng Đồng Minh vào ngày 11 tháng 3, 1944.[1]

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-380 được đặt hàng vào ngày 16 tháng 10, 1939,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng HowaldtswerkeKiel vào ngày 1 tháng 10, 1940.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 5 tháng 11, 1941,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 22 tháng 12, 1941[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Josef Röther.[2]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi di chuyển từ cảng Kiel, Đức đến cảng Trondheim, Na Uy vào đầu tháng 8, 1942, U-380 khởi hành từ đây vào ngày 22 tháng 8 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó băng qua khe GIUK giữa quần đảo FaroeIceland để vòng qua quần đảo Anh và hoạt động trong vùng biển giữa Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Nam Greenland.[6]

Trong khi tìm cách tấn công Đoàn tàu ON-127 vào ngày 12 tháng 9 tại khu vực giữa Đại Tây Dương, U-380 bị các tàu hộ tống cho đoàn tàu phát hiện và bị tấn công bằng mìn sâu, làm hỏng một trong các động cơ diesel. Hư hại không nghiêm trọng đến mức phải hủy bỏ chuyến tuần tra, nhưng chiếc U-boat không tiếp tục tấn công.[6] Một tuần sau đó, 18 tháng 9, nó phóng ngư lôi tấn công và đánh chìm tàu buôn Na Uy Olaf Fostenes 2.994 GRT đang di chuyển độc lập không được hộ tống, tại tọa độ 44°56′B 41°05′T / 44,933°B 41,083°T / 44.933; -41.083; toàn bộ 36 thành viên thủy thủ đoàn đều sống sót.[7] Kết thúc chuyến tuần tra, U-380 đi đến cảng St. Nazaire bên bờ Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 7 tháng 10.[4]

Bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

Đang khi neo đậu trong cảng Toulon, Pháp vào ngày 11 tháng 3, 1944, U-380 cùng với tàu ngầm U-410 bị trúng bom ném từ máy bay ném bom của Không lực 15 Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong một đợt không kích. U-380 đắm tại tọa độ 43°07′B 5°55′T / 43,117°B 5,917°T / 43.117; -5.917; một thành viên thủy thủ đoàn đã tử trận trong cuộc không kích này.[1][2]

"Bầy sói" tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

U-380 từng tham gia bốn bầy sói:

  • Stier (29 tháng 8 – 2 tháng 9, 1942)
  • Vorwärts (2 – 25 tháng 9, 1942)
  • Delphin (5 – 12 tháng 11, 1942)
  • Wal (12 – 15 tháng 11, 1942)

Tóm tắt chiến công

[sửa | sửa mã nguồn]

U-380 đã đánh chìm hoặc gây tổn thất toàn bộ cho ba tàu buôn với tổng tải trọng 21.241 GRT cùng gây hư hại cho một tàu buôn khác tải trọng 7.191 GRT:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[8]
18 tháng 9, 1942 Olaf Fostenes  Norway 2.994 Bị đánh chìm
11 tháng 11, 1942 Nieuw Zeeland  Netherlands 11.069 Bị đánh chìm
15 tháng 3, 1943 Ocean Seaman  United Kingdom 7.178 Tổn thất toàn bộ
23 tháng 8, 1943 Pierre Soulé  United States 7.191 Bị hư hại

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Kemp (1999), tr. 176.
  2. ^ a b c d e f g h Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-380”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  4. ^ a b Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-380”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  5. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  6. ^ a b Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-380 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Olaf Fostenes – Norwegian Motor merchant”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-380”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Edwards, Bernard (1996). Dönitz and the Wolf Packs – The U-boats at War. Cassell Military Classics. tr. 105, 108. ISBN 0-304-35203-9.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Röll, Hans-Joachim; Besler, Michael (2014) [2011]. U 380 "Das Kleeblattboot" [U 380 "The Cloverleaf Boat"] (bằng tiếng Đức) (ấn bản thứ 2). Würzburg, Germany: Flechsig. ISBN 978-3-8035-0020-5.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-380”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  • Hofmann, Markus. “U 380”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Sơ lược về thuật thức của gia tộc Kamo
Sơ lược về thuật thức của gia tộc Kamo
Xích Huyết Thao Thuật là một trong những thuật thức quý giá được truyền qua nhiều thế hệ của tộc Kamo.
Tổng hợp tất cả nhân vật trong Overlord
Tổng hợp tất cả nhân vật trong Overlord
Danh sách các nhân vật trong Overlord
[Review sách] Đứa con đi hoang trở về: Khi tự do chỉ là lối thoát trong tâm tưởng
[Review sách] Đứa con đi hoang trở về: Khi tự do chỉ là lối thoát trong tâm tưởng
Có bao giờ cậu tự hỏi, vì sao con người ta cứ đâm đầu làm một việc, bất chấp những lời cảnh báo, những tấm gương thất bại trước đó?
Thượng Tam Akaza bi kịch của một con người
Thượng Tam Akaza bi kịch của một con người
Trong ký ức mơ hồ của hắn, chàng trai tên Hakuji chỉ là một kẻ yếu đuối đến thảm hại, chẳng thể làm được gì để cứu lấy những gì hắn yêu quí