U-383 (tàu ngầm Đức)

Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-383
Đặt hàng 15 tháng 8, 1940
Xưởng đóng tàu Howaldtswerke, Kiel
Số hiệu xưởng đóng tàu 14
Đặt lườn 29 tháng 3, 1941
Hạ thủy 22 tháng 4, 1942
Nhập biên chế 6 tháng 6, 1942
Tình trạng Bị một thủy phi cơ Short Sunderland của Không quân Hoàng gia Anh đánh chìm trong vịnh Biscay, 1 tháng 8, 1943[1][2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [3]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [3]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [3]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [3]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [3]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [3]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [3]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [3]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [3]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [3]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[2][4]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 41 101
Chỉ huy:
  • Đại úy Horst Kremser
  • 6 tháng 6, 1942 – 1 tháng 8, 1943
Chiến dịch:
  • 4 chuyến tuần tra:
  • 1: 17 tháng 10 – 9 tháng 12, 1942
  • 2: 6 tháng 1 – 10 tháng 3, 1943
  • 3: 17 tháng 4 – 25 tháng 5, 1943
  • 4: 27 tháng 7 – 1 tháng 8, 1943
Chiến thắng: 1 tàu buôn bị đánh chìm
(423 GRT)

U-383 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được bốn chuyến tuần tra và đánh chìm được một tàu buôn tải trọng 423 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-383 bị một thủy phi cơ Short Sunderland của Không quân Hoàng gia Anh đánh chìm trong vịnh Biscay vào ngày 1 tháng 8, 1943.[1]

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-383 được đặt hàng vào ngày 15 tháng 8, 1940,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng HowaldtswerkeKiel vào ngày 29 tháng 3, 1941.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 22 tháng 4, 1942,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 6 tháng 6, 1942[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Horst Kremser.[2]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 8, U-383 được điều sang Chi hạm đội U-boat 9 từ ngày 1 tháng 10, 1942 để hoạt động trên tuyến đầu.[2]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

U-383 khởi hành từ Kiel vào ngày 17 tháng 10 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó băng qua khe GIUK giữa Iceland và quần đảo Faroe để vòng qua quần đảo Anh và hoạt động trong vùng biển giữa Bắc Đại Tây Dương.[6] Trên đường đi lúc giữa trưa ngày 24 tháng 10, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu đánh cá Iceland Jon Olafsson 423 GRT ở vị trí khoảng 100 mi (160 km) về phía Nam Iceland, tại tọa độ 62°09′B 16°52′T / 62,15°B 16,867°T / 62.150; -16.867, khiến toàn bộ 13 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng.[7] Kết thúc chuyến tuần tra, chiếc U-boat đi đến cảng Brest bên bờ Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 9 tháng 12. Cảng này trở thành căn cứ hoạt động của U-383 cho đến hết quãng đời hoạt động của nó.[4]

Chuyến tuần tra thứ hai và thứ ba

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ căn cứ Brest, U-383 lần lượt thực hiện thêm hai chuyến tuần tra từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 10 tháng 3 và từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 25 tháng 5, 1943. Trong cả hai lượt hoạt động tại vùng biển Trung tâm Đại Tây Dương này, nó không đánh chìm được thêm mục tiêu nào.[8][9]

Chuyến tuần tra thứ tư – Bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

U-383 khởi hành từ Brest vào ngày 27 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ tư, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động trong vịnh Biscay ngoài khơi bờ biển nước Pháp.[10] Lúc chiều tối ngày 1 tháng 8, ở vị trí về phía Tây Brittany, tại tọa độ 47°24′B 12°10′T / 47,4°B 12,167°T / 47.400; -12.167, nó bị một thủy phi cơ Short Sunderland thuộc Liên đội 228 Không quân Hoàng gia Anh. Hỏa lực phòng không chống trả từ chiếc tàu ngầm đã bắn trúng và gây hư hại cho chiếc Sunderland, nhưng chiếc thủy phi cơ đối phương vẫn ném mìn sâu tấn công chiếc tàu ngầm rồi quay trở về căn cứ an toàn. Đại úy Kremser đánh điện cầu cứu, nhưng khi ba tàu U-boat cùng ba tàu phóng lôi Đức đi đến hiện trường, họ tìm kiếm suốt đêm và sang sáng ngày hôm sau nhưng vẫn không tìm thấy U-383. Chiếc tàu ngầm được cho là đã mất với tổn thất toàn bộ 52 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu.[2]

"Bầy sói" tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

U-383 từng tham gia mười bầy sói:

  • Puma (26 – 29 tháng 10, 1942)
  • Natter (30 tháng 10 – 8 tháng 11, 1942)
  • Kreuzotter (8 – 18 tháng 11, 1942)
  • Habicht (10 – 19 tháng 1, 1943)
  • Haudegen (19 tháng 1 – 15 tháng 2, 1943)
  • Sturmbock (23 – 26 tháng 2, 1943)
  • Amsel (22 tháng 4 – 3 tháng 5, 1943)
  • Amsel 2 (3 – 6 tháng 5, 1943)
  • Elbe (7 – 10 tháng 5, 1943)
  • Elbe 2 (10 – 14 tháng 5, 1943)

Tóm tắt chiến công

[sửa | sửa mã nguồn]

U-383 đã đánh chìm được một tàu buôn tổng tải trọng 432 GRT:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[11]
24 tháng 10, 1942 Jon Olafsson  Iceland 423 Bị đánh chìm

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Kemp 1999, tr. 138.
  2. ^ a b c d e f g h i Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-383”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  4. ^ a b Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-383”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  5. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-382 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Jon Olafsson - Icelandic Steam trawler”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-382 (second patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  9. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-382 (third patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-383 (fourth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  11. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-383”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bishop, Chris (2006). Kriegsmarine U-Boats, 1939-45. London: Amber Books. ISBN 978-1-904687-96-2.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-383”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
  • Hofmann, Markus. “U 383”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Đánh giá, Hướng dẫn build Kazuha - Genshin Impact
Đánh giá, Hướng dẫn build Kazuha - Genshin Impact
Kazuha hút quái của Kazuha k hất tung quái lên nên cá nhân mình thấy khá ưng. (E khuếch tán được cả plunge atk nên không bị thọt dmg)
Một số sự thật thú vị về Thụ Yêu Tinh Treyni
Một số sự thật thú vị về Thụ Yêu Tinh Treyni
Là thực thể đứng đầu rừng Jura (được đại hiền nhân xác nhận) rất được tôn trọng, ko ai dám mang ra đùa (trừ Gobuta), là thần bảo hộ, quản lý và phán xét của khu rừng
Những bài học kinh doanh rút ra từ Itaewon Class
Những bài học kinh doanh rút ra từ Itaewon Class
Đối với mình, điểm đặc sắc nhất phim chính là cuộc chiến kinh doanh giữa quán nhậu nhỏ bé DanBam và doanh nghiệp lớn đầy quyền lực Jangga
Giới thiệu phim Hồi ức kẻ sát nhân (Memories of Murder)
Giới thiệu phim Hồi ức kẻ sát nhân (Memories of Murder)
Tên sát nhân đã phải ngồi tù từ năm 1994, với bản án chung thân vì tội danh c.ưỡng h.iếp và s.át h.ại em vợ