U-377 (tàu ngầm Đức)

Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-377
Đặt hàng 16 tháng 10, 1939
Xưởng đóng tàu Howaldtswerke, Kiel
Số hiệu xưởng đóng tàu 8
Đặt lườn 8 tháng 4, 1940
Hạ thủy 15 tháng 8, 1941
Nhập biên chế 2 tháng 10, 1941
Tình trạng
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [3]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [3]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [3]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [3]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [3]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [3]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [3]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [3]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [3]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [3]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[1][4]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 16 791
Chỉ huy:
  • Đại úy Otto Köhler
  • 2 tháng 10, 1941 – 2 tháng 8, 1943
  • Trung úy Gerhard Kluth
  • 3 tháng 8, 1943 – 17 tháng 1, 1944
  • Thiếu úy Ernst-August Gerke (tạm quyền)
  • 22 tháng 9 – 10 tháng 10, 1943
Chiến dịch:
  • 11 chuyến tuần tra:
  • 1: 14 – 28 tháng 2, 1942
  • 2: 6 – 25 tháng 3, 1942
  • 3: 5 – 19 tháng 4, 1942
  • 4: 25 tháng 5 – 2 tháng 6, 1942
  • 5: 18 – 25 tháng 7, 1942
  • 6: 30 tháng 8 – 24 tháng 9, 1942
  • 7: 7 tháng 10 – 25 tháng 11, 1942
  • 8: 30 tháng 1 – 18 tháng 3, 1943
  • 9: 15 tháng 4 – 7 tháng 6, 1943
  • 10: 26 tháng 8 – 10 tháng 10, 1943
  • 11: 15 tháng 12, 1943 – 17 tháng 1, 1944
Chiến thắng: Không

U-377 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được mười một chuyến tuần tra nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong Đại Tây Dương, U-377 mất tích từ ngày 17 tháng 1, 1944, có thể đã bị các tàu khu trục HMS Wanderertàu frigate HMS Glenarm thuộc Hải quân Hoàng gia Anh thả mìn sâu đánh chìm vào ngày 17 tháng 1, 1944.[2]

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-377 được đặt hàng vào ngày 16 tháng 10, 1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng HowaldtswerkeKiel vào ngày 8 tháng 4, 1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 8, 1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 2 tháng 10, 1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Otto Köhler.[1]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 6, U-377 sẵn sàng hoạt động từ ngày 1 tháng 2, 1942. Nó hoạt động từ các căn cứ tại Na Uy, và đến ngày 1 tháng 7 đã được điều động sang Chi hạm đội U-boat 11.[1]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

Khởi hành từ cảng Kiel vào ngày 14 tháng 2 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, U-377 hoạt động dọc theo bờ biển Na Uy cho đến khi đi đến cảng Narvik, Na Uy vào ngày 28 tháng 2.[6] Nơi đây trở thành cảng nhà và là căn cứ hoạt động chính của chiếc tàu ngầm cho đến hết năm 1942.[4]

Chuyến tuần tra thứ mười một – Bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi Trung úy Kluth quay trở lại nắm quyền chỉ huy con tàu, U-377 khởi hành từ Brest vào ngày 15 tháng 12, 1943 cho chuyến tuần tra thứ mười một, và hoạt động tại khu vực giữa Bắc Đại Tây Dương.[7] Chiếc tàu ngầm gửi báo cáo cuối cùng về căn cứ vào ngày 15 tháng 1, 1944, cho biết đã tấn công một đội tìm-diệt tàu ngầm đối phương bằng ngư lôi dò âm. Bộ Tổng chỉ huy U-boat Đức dự kiến con tàu sẽ về đến vùng bờ biển Pháp vào khoảng ngày 29 tháng 1, nên khi nó không có mặt vào ngày 10 tháng 2, con tàu được cho là mất tích từ ngày 4 tháng 2.[1]

Sau chiến tranh phía Đồng Minh không thể xác định lý do U-377 bị mất tích với bất kỳ hoạt động chống ngầm nào, nên chiếc U-boat được xem là mất không rõ nguyên nhân. Vào khoảng thời gian chiếc tàu ngầm bị mất, Bộ Tổng chỉ huy U-boat Đức nhận được hai bức điện khẩn rời rạc, mã hóa và không ký tên, nên đưa đến giả thuyết cho rằng U-377 bị đánh chìm bởi một quả ngư lôi G7es (T5) dò âm của chính nó, và giả thuyết này được nhiều nguồn công nhận.[8][9]

Tuy nhiên đã một đợt tấn công bằng mìn sâu từ các tàu khu trục HMS Wanderertàu frigate HMS Glenarm thuộc Hải quân Hoàng gia Anh diễn ra tại tọa độ 49°39′B 20°10′T / 49,65°B 20,167°T / 49.650; -20.167 vào ngày 17 tháng 1, và kéo dài trong suốt hai ngày. Nơi đây cách vị trí cuối cùng được biết của U-377 khoảng 220 nmi (410 km), cũng như nằm trên lộ trình di chuyển của chiếc U-boat nếu như nó di chuyển chậm để tiết kiệm nhiên liệu, khiến có thể là câu trả lời sau cùng về số phận của U-377.[2]

"Bầy sói" tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

U-377 từng tham gia 15 bầy sói:

  • Aufnahme (7 – 11 tháng 3, 1942)
  • Blücher (11 – 18 tháng 3, 1942)
  • Bums (6 – 14 tháng 4, 1942)
  • Blutrausch (15 – 17 tháng 4, 1942)
  • Trägertod (12 – 21 tháng 9, 1942)
  • Ritter (11 – 21 tháng 2, 1943)
  • Neptun (22 tháng 2 – 2 tháng 3, 1943)
  • Amsel (22 tháng 4 – 3 tháng 5, 1943)
  • Amsel 2 (3 – 6 tháng 5, 1943)
  • Elbe (7 – 10 tháng 5, 1943)
  • Elbe 2 (10 – 14 tháng 5, 1943)
  • Leuthen (15 – 22 tháng 9, 1943)
  • Borkum (24 tháng 12, 1943 – 3 tháng 1, 1944)
  • Borkum 3 (3 – 13 tháng 1, 1944)
  • Rügen (13 – 17 tháng 1, 1944)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-377”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
  2. ^ a b c Niestlé, Axel. “The Loss of U-305, U-377 and U-641. ubootwaffe.net. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2014.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
  4. ^ a b Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-377”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
  5. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-377 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-377 (eleventh patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
  8. ^ Kemp (1997), tr. 164.
  9. ^ Niestle (2014), tr. 58-59.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Edwards, Bernard (1996). Dönitz and the Wolf Packs – The U-boats at War. Cassell Military Classics. tr. 219–220. ISBN 0-304-35203-9.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Sơn mài - hình thức nghệ thuật đắt giá của Việt Nam
Sơn mài - hình thức nghệ thuật đắt giá của Việt Nam
Sơn mài là một hình thức tranh sơn phết truyền thống của Việt Nam được tạo ra từ một loại sơn độc được thu hoạch từ một vùng xa xôi của đất nước
Phân tích: có nên build Xiangling hay không?
Phân tích: có nên build Xiangling hay không?
Ai cũng biết rằng những ngày đầu ghi game ra mắt, banner đầu tiên là banner Venti có rate up nhân vật Xiangling
Top 17 khách sạn Quy Nhơn tốt nhất
Top 17 khách sạn Quy Nhơn tốt nhất
Lựa chọn được khách sạn ưng ý, vừa túi tiền và thuận tiện di chuyển sẽ giúp chuyến du lịch khám phá thành phố biển Quy Nhơn của bạn trọn vẹn hơn bao giờ hết
IT đã không còn là vua của mọi nghề nữa rồi
IT đã không còn là vua của mọi nghề nữa rồi
Và anh nghĩ là anh sẽ code web như vậy đến hết đời và cuộc sống sẽ cứ êm đềm trôi mà không còn biến cố gì nữa