U-378 (tàu ngầm Đức)

Tàu ngầm U-378 đang bị tấn công trong Đại Tây Dương, ngày 20 tháng 10 năm 1943
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-331
Đặt hàng 16 tháng 10, 1939
Xưởng đóng tàu Howaldtswerke, Kiel
Số hiệu xưởng đóng tàu 9
Đặt lườn 3 tháng 5, 1940
Hạ thủy 13 tháng 9, 1941
Nhập biên chế 30 tháng 10, 1941
Tình trạng Bị máy bay xuất phát từ tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ USS Core đánh chìm giữa Đại Tây Dương, 20 tháng 10, 1943[1][2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [3]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [3]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [3]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [3]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [3]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [3]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [3]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [3]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [3]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [3]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[2][4]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 34 668
Chỉ huy:
  • Đại úy Alfred Hoschatt
  • 30 tháng 10, 1941 – 11 tháng 10, 1942
  • Trung úy Peter Schrewe
  • 18 tháng 6 – 10 tháng 9, 1942
  • Đại úy Hans-Jürgen Zetzsche
  • 10 tháng 9 – 11 tháng 10, 1942 (tạm quyền)
  • Đại úy Erich Mäder
  • 12 tháng 10, 1942 – 20 tháng 10, 1943
Chiến dịch:
  • 8 chuyến tuần tra:
  • 1: 11 tháng 3 – 1 tháng 4, 1942
  • 2: 7 – 20 tháng 4, 1942
  • 3: 29 tháng 4 – 12 tháng 5, 1942
  • 4: 17 – 19 tháng 10, 1942
  • 5: 11 tháng 11 – 17 tháng 12, 1942
  • 6: 15 tháng 3 – 1 tháng 4, 1943
  • 7: 12 tháng 4 – 4 tháng 6, 1943
  • 8: 6 tháng 9 – 20 tháng 10, 1943
Chiến thắng: 1 tàu chiến bị đánh chìm
(1.920 tấn)

U-378 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được tám chuyến tuần tra và đánh chìm được một tàu chiến tải trọng 1.920 tấn. Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-378 bị máy bay xuất phát từ tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ USS Core đánh chìm giữa Đại Tây Dương vào ngày 20 tháng 10, 1943.[1]

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-378 được đặt hàng vào ngày 16 tháng 10, 1939,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng HowaldtswerkeKiel vào ngày 3 tháng 5, 1940.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 13 tháng 9, 1941,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 30 tháng 10, 1941[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Alfred Hoschatt.[2]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

U-378 xuất phát từ Kiel vào ngày 11 tháng 3, 1942 và đi đến HeligolandBắc Hải vào ngày hôm sau.[4] Nó khởi hành vào ngày 15 tháng 3 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, hướng lên phía Bắc dọc theo bờ biển Na Uy để hoạt động trong khu vực biển Barents.[6] Vào ngày 29 tháng 3, ở vị trí về phía Đông Bắc mũi North, Na Uy, chiếc tàu ngầm đụng độ với tàu khu trục Anh HMS Fury, vốn đang hộ tống cho tàu tuần dương hạng nhẹ HMS Trinidad bị hư hại rút lui. Fury tìm cách húc U-378, nhưng chiếc tàu ngầm né tránh được. Fury tiếp tục tấn công, nhưng chỉ thả được ba quả mìn sâu, do thời tiết băng giá khiến máy phóng mìn không hoạt động, và chiếc U-boat thoát được mà không bị hư hại.[6] Kết thúc chuyến tuần tra, U-378 đi đến cảng Kirkenes ở phía cực Bắc Na Uy vào ngày 1 tháng 4.[4]

Chuyến tuần tra thứ tám – Bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

U-378 khởi hành từ cảng La Pallice vào ngày 6 tháng 9 cho chuyến tuần tra thứ tám, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động tại khu vực giữa Bắc Đại Tây Dương.[7] Tại đây vào ngày 8 tháng 10, nó tấn công Đoàn tàu SC-143, và một quả ngư lôi G7es (T5) dò âm đã đánh trúng tàu khu trục Ba Lan ORP Orkan trong thành phần hộ tống của đoàn tàu lúc 07 giờ 05 phút. Chiếc tàu khu trục đắm chỉ trong vòng năm phút, tại tọa độ 56°30′B 26°26′T / 56,5°B 26,433°T / 56.500; -26.433; hạm trưởng, 10 sĩ quan, 166 thủy thủ Ba Lan cùng bảy thủy thủ Anh đã tử trận cùng con tàu. 43 người sống sót được tàu khu trục Anh HMS Musketeer cứu vớt.[8]

Vào ngày 13 tháng 10, U-378 bị một máy bay ném bom-ngư lôi TBF Avenger tấn công với một quả ngư lôi dẫn đường FIDO Mark 24 được thả xuống, nhưng đã không trúng đích.[7] Đến ngày 20 tháng 10, chiếc tàu ngầm bị một chiếc TBF Avenger phối hợp cùng một máy bay tiêm kích F4F Wildcat, cùng xuất phát từ tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ USS Core tấn công. Mìn sâu từ máy bay thả xuống đã đánh chìm U-378 giữa Đại Tây Dương, tại tọa độ 47°40′B 28°27′T / 47,667°B 28,45°T / 47.667; -28.450; toàn bộ 48 thành viên thủy thủ đoàn của nó đều tử trận.[1][2]

"Bầy sói" tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

U-378 từng tham gia 16 bầy sói:

  • Zieten (23 – 29 tháng 3, 1942)
  • Eiswolf (29 – 31 tháng 3, 1942)
  • Robbenschlag (7 – 14 tháng 4, 1942)
  • Blutrausch (15 – 19 tháng 4, 1942)
  • Strauchritter (29 tháng 4 – 5 tháng 5, 1942)
  • Trägertod (19 – 22 tháng 9, 1942)
  • Boreas (19 tháng 11 – 9 tháng 12, 1942)
  • Eisbär (27 – 30 tháng 3, 1943)
  • Meise (25 – 27 tháng 4, 1943)
  • Star (27 tháng 4 – 4 tháng 5, 1943)
  • Fink (4 – 6 tháng 5, 1943)
  • Naab (12 – 15 tháng 5, 1943)
  • Donau 2 (15 – 19 tháng 5, 1943)
  • Mosel (19 – 24 tháng 5, 1943)
  • Leuthen (15 – 24 tháng 9, 1943)
  • Rossbach (24 tháng 9 – 9 tháng 10, 1943)

Tóm tắt chiến công

[sửa | sửa mã nguồn]

U-378 đã đánh chìm được một tàu chiến tải trọng 1.920 tấn:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[9]
8 tháng 10, 1943 ORP Orkan  Hải quân Ba Lan 1.920 Bị Đánh chìm

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Kemp (1999), tr. 152.
  2. ^ a b c d e f g h Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-378”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
  4. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-378”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
  5. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  6. ^ a b Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-378 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
  7. ^ a b Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-378 (eighth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “ORP Orkan - Polish Destroyer”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
  9. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-378”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-378”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
  • Hofmann, Markus. “U 378”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Borrowed Time - bộ phim ngắn khá u tối của Pixar
Borrowed Time - bộ phim ngắn khá u tối của Pixar
Pixar Animation Studios vốn nổi tiếng với những bộ phim hơi có phần "so deep"
[Phân tích] Sức mạnh của Dainsleif - Genshin Impact
[Phân tích] Sức mạnh của Dainsleif - Genshin Impact
Dainsleif is the former knight captain of the Royal Guard of Khaenri'ah
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Đây là bản dịch lời của bài [Polumnia Omnia], cũng là bản nhạc nền chủ đạo cho giai đoạn 2 của Boss "Shouki no Kami, Kẻ Hoang Đàng".
Hướng dẫn cày Genshin Impact tối ưu và hiệu quả nhất
Hướng dẫn cày Genshin Impact tối ưu và hiệu quả nhất
Daily Route hay còn gọi là hành trình bạn phải đi hằng ngày. Nó rất thú vị ở những ngày đầu và rất rất nhàm chán về sau.