Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Một phần của loạt bài về |
Âm nhạc Việt Nam |
---|
Âm nhạc cổ truyền |
Tân nhạc |
Giải thưởng |
Một phần của loạt bài về |
Văn hóa Việt Nam |
---|
Văn học |
Âm nhạc Việt Nam là hệ thống tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Đây là một phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh những nét đặc trưng của con người, văn hóa, phong tục, địa lý,... của đất nước Việt Nam, trải dài suốt chiều dài Lịch sử Việt Nam.
Âm nhạc Việt Nam bắt đầu từ những nền văn minh đầu tiên qua những phát hiện khảo cổ về những nhạc cụ. Trải qua những triều đại phong kiến, nền âm nhạc Việt Nam có được những nét phát triển rõ rệt. Ngoài ra các nền văn hóa ngoại lai như Trung Hoa, Ấn Độ, Chăm Pa cũng ảnh hưởng đến âm nhạc Việt Nam, dung hòa những yếu tố ảnh hưởng từ nước ngoài với những nét nổi bật vốn có của âm nhạc truyền thống, từ đó tạo nên những loại hình âm nhạc cổ truyền của từng vùng miền như hát xẩm, bài chòi, ca trù, hò, cải lương, đờn ca tài tử, nhã nhạc cung đình Huế, quan họ, chầu văn,...
Giai đoạn Pháp thuộc vào cuối thế kỷ XIX đặc biệt góp phần giúp âm nhạc Việt Nam được tiếp xúc với những phong cách và quan điểm của văn hóa phương Tây, đồng thời tiếp tục phát triển với những nét đặc trưng riêng. Tân nhạc Việt Nam ra đời vào cuối thập niên 1930 với dòng nhạc tiền chiến rồi tiếp hơi cho những làn điệu mới trong thời gian đất nước chia đôi dưới hai chính thể: Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhạc đỏ ra đời sau năm 1945 ở miền Bắc với sự xuất hiện của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng trong khi đó nhiều thể loại âm nhạc mới như nhạc vàng, nhạc trẻ, du ca nở rộ ở miền Nam.
Sau năm 1975, âm nhạc Việt Nam bắt đầu học tập nhiều phong cách từ khắp nơi trên thế giới. Sau khi đất nước mở cửa vào cuối thập niên 1980, đặc biệt là việc những lứa nghệ sĩ chuyên nghiệp đầu tiên được cử đi du học, âm nhạc Việt Nam đã theo kịp xu hướng của thế giới, mang theo nhiều phong cách và thể loại chưa từng xuất hiện tới nền văn hóa đại chúng nói chung và nền âm nhạc nói riêng ở Việt Nam. Ngoài ra, một số lượng lớn nghệ sĩ hải ngoại cũng góp phần xây dựng đáng kể vào sự phát triển của nền âm nhạc Việt Nam ngày nay. Âm nhạc hiện đại Việt Nam bao gồm nhiều yếu tố kết hợp của các nền văn hóa châu Á, châu Âu, thậm chí châu Mỹ và châu Phi qua việc gia tăng cộng tác của các nghệ sĩ trong nước với các nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới. Trên hết, âm nhạc Việt Nam vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng của nền văn hóa truyền thống Việt Nam.
Âm nhạc Việt Nam có một lịch sử lâu dài. Âm nhạc xuất hiện trước chữ viết là phương tiện để con người thể hiện cảm xúc của mình về thế giới xung quanh và cũng là một phần trong sinh hoạt cộng đồng. Âm nhạc ở Việt Nam còn được sử dụng trong sinh hoạt tôn giáo, trong đời sống thường nhật và trong các lễ hội của dân chúng. Từ thời nguyên thủy đã xuất hiện nhạc cụ trong đó có đàn đá được xem là một loại nhạc cụ cổ xưa nhất của nhân loại. Đến thời kỳ đồ đồng xuất hiện trống đồng và các loại nhạc cụ khác. Do sự đa dạng về mặt sắc tộc nên các loại nhạc cụ bản địa tại Việt Nam hết sức phong phú và có lịch sử lâu đời. Cũng chính điều này khiến nền âm nhạc của Việt Nam mang nhiều sắc thái. Mỗi dân tộc sở hữu nhiều loại hình âm nhạc khác nhau thuộc hai thể loại thanh nhạc và khí nhạc. Ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa lên âm nhạc Việt Nam khá mạnh với sự xuất hiện của nhiều loại nhạc cụ Trung Hoa như đàn tỳ bà, đàn tranh, đàn nhị... trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên âm nhạc cổ truyền của Việt Nam không hoàn toàn giống âm nhạc cổ truyền Trung Hoa. Ngoài ra còn có các loại nhạc cụ có nguồn gốc Ấn Độ như trống cơm, trống lục lạc...
Gồm nhạc dân gian, nhạc thính phòng, kịch hát, nhạc cung đình
Vào thế kỷ XV, vua Lê Thánh Tông không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ XVIII, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XIX. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình – Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ XIX, chèo chịu ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ XX, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị độ mai.
Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.
Theo truyền thuyết, đời nhà Trần, vua cha Trần Thánh Tông có 2 hoàng tử là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh. Do tranh giành quyền lực nên Trần Quốc Đĩnh bị Trần Quốc Toán hãm hại, chọc mù mắt rồi đem bỏ giữa rừng sâu. Tỉnh dậy, 2 mắt mù lòa nên Trần Quốc Đĩnh chỉ biết than khóc rồi thiếp đi. Trong mơ, Bụt hiện ra dạy cho ông cách làm một cây đàn với dây đàn làm bằng dây rừng và gẩy bằng que nứa. Tỉnh dậy, ông mò mẫm làm cây đàn và thật lạ kỳ, cây đàn vang lên những âm thanh rất hay khiến chim muông sà xuống nghe và mang hoa quả đến cho ông ăn. Sau đó, những người đi rừng nghe tiếng đàn đã tìm thấy và đưa ông về. Trần Quốc Đĩnh dạy đàn cho những người nghèo, người khiếm thị. Tiếng đồn về những khúc nhạc của ông lan đến tận hoàng cung, vua vời ông vào hát và nhận ra con mình. Trở lại đời sống cung đình, nhưng Trần Quốc Đĩnh vẫn tiếp tục mang tiếng đàn, lời ca dạy cho người dân để họ có nghề kiếm sống. Hát xẩm đã ra đời từ đó, và Trần Quốc Đĩnh được suy tôn là ông tổ nghề hát xẩm nói riêng cũng như hát xướng dân gian Việt Nam nói chung. Người dân lấy ngày 22 tháng 2 và 22 tháng 8 âm lịch làm ngày giỗ của ông. Trung tâm Phát triển Nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam thuộc Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã lập ra một giải thưởng mang tên Trần Quốc Đĩnh nhằm tôn vinh, hỗ trợ các nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà sưu tầm, nghiên cứu, nhà báo có công lao, đóng góp cho lĩnh vực âm nhạc truyền thống và trao giải lần đầu tiên năm 2008.
Theo chính sử thì vua Trần Thánh Tông không có hoàng tử tên Đĩnh hay Toán. Thái tử con vua Thánh Tông tên là Khảm, sau lên ngôi là vua Nhân Tông; một người con nữa là Tả Thiên vương. Vì vậy nguồn gốc hát xẩm là dựa trên thánh tích chứ không truy được ra trong chính sử.
Ý nghĩa từ Quan họ thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen về mặt từ nguyên của quan và của họ. Điều này dẫn đến những kiến giải về Quan họ xuất phát từ âm nhạc cung đình, hay gắn với sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh, liền chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức (họ). Tuy nhiên cách lý giải này đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt (nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian.
Hát chầu văn là loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc trong nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Bằng cách sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với các lời văn trau chuốt nghiêm trang, chầu văn được coi là hình thức ca hát mang ý nghĩa chầu thánh. Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát văn là cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Vào thời gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954, hát văn dần dần mai một vì hầu đồng bị cấm do bị coi là mê tín dị đoan.
Chầu văn sử dụng nhiều thể thơ khác nhau như thơ thất ngôn, song thất lục bát, lục bát, nhất bát song thất (có thể gọi là song thất nhất bát gồm có một câu tám và hai câu bảy chữ), hát nói,... Các thí dụ minh họa: - Thể thất ngôn: (trích đoạn bỉ của văn công đồng)
森森鶴駕從空下
Sâm sâm hạc giá tòng không hạ
顯顯鸞輿滿坐前
Hiển hiển loan dư mãn tọa tiền
不舍威光敷神力
Bất xả uy quang phu thần lực
證明功德量無邊
Chứng minh công đức lượng vô biên
Ca trù là bộ môn nghệ thuật truyền thống ở phía Bắc Việt Nam[1] kết hợp hát cùng một số nhạc cụ dân tộc. Ca trù thịnh hành từ thế kỷ XV, từng là một loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và học giả yêu thích.
Ngày 1 tháng 10 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ tư của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), ca trù đã được công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp[2][3][4]. Đây là di sản văn hóa thế giới có vùng ảnh hưởng lớn nhất Việt Nam, có phạm vi tới 16 tỉnh, thành phố phía Bắc. Hồ sơ đề cử Ca trù là di sản văn hóa thế giới với không gian văn hóa Ca trù trải dài khắp 16 tỉnh phía Bắc gồm: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Thái Bình, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình.
Hò là loại ca hát trình diễn dân gian phổ biến đến đời sống, là nét văn hóa của miền Trung và miền Nam. Có nguồn gốc lao động sông nước, diễn tả tâm tư tình cảm của người lao động.
Trong sinh hoạt những đêm trăng những nhóm con trai đi chơi, thường cất lên những điệu hò để dò hỏi những cô gái về những công việc. Điệu hò giao duyên giữ hai bên đối đáp lại nhau, người con gái hay một nhóm sẽ hò đáp trả lại khi đó. Trên sông nước khi đi đò, người hò thường hò điệu giao duyên giữa hai chiếc đò gần nhau.
Các loại hò phổ biến:
Nhã nhạc là hình thức phổ biến của âm nhạc cung đình, đề cập đến các thể loại nhạc triều đình được chơi trong các dịp lễ hội từ thời Nhà Trần đến thời Nhà Nguyễn (triều đại cuối cùng của Việt Nam). Nhã nhạc được các hoàng đế chúa Nguyễn tổng hợp và phát triển trở thành tầm vóc của quốc gia.
Ở các triều đại Việt Nam thế kỷ 19 cũng có nhiều điệu múa hoàng gia rất đặc sắc hiện vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Chủ đề của hầu hết các điệu múa này là chúc nhà Vua trường thọ và sự giàu có hưng thịnh của đất nước.
Bắt nguồn từ Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian [5], nhạc tài tử được hình thành và phát triển vào cuối thế kỷ 19. Nhạc tài tử là loại hình diễn tấu có ban nhạc gồm bốn loại là đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu (gọi là tứ tuyệt), sau này có cách tân bằng cách thay thế độc huyền bằng cây guitar phím lõm. Những người tham gia phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với nhau. Họ tập trung lại để cùng chia sẻ thú vui tao nhã nên thường không câu nệ về trang phục... Đây là loại hình nghệ thuật của đàn và ca, do những người bình dân, thanh niên nam nữ nông thôn Nam Bộ ca hát sau những giờ lao động.
Tân nhạc Việt Nam là thể nhạc lấy nhạc ngữ Tây phương làm nền tảng. Các sáng tác có thể chia làm thanh nhạc và khí nhạc, theo phong cách thính phòng, dân gian và nhạc nhẹ, hoặc cũng có thể chia theo các giai đoạn lịch sử với những đặc điểm khác nhau. Cách phân chia phổ biến là theo giai đoạn lịch sử. Về khí nhạc, nổi bật các sáng tác: Giao hưởng số 1 "Quê hương" (Hoàng Việt), "Bài ca chim ưng" (Đàm Linh), "Miền Nam quê hương ta ơi" (Huy Du), "Trở về đất mẹ" (Nguyễn Văn Thương), "Thành đồng Tổ Quốc" (Hoàng Vân), "Suối đàn T'rưng" (Nhật Lai), "Tiếng sáo quê hương" (Văn Chung), "Người về đem tới ngày vui" (Trọng Bằng), "Vì miền Nam" (Huy Thục), "Mẹ Việt Nam" (Nguyễn Văn Nam), "Cung đàn đất nước", "Chung một niềm tin", "Xuân quê hương" (Xuân Khải), "Tình yêu của biển" (Cát Vận), "Đất và hoa" (Quang Hải), Buồn,Vui và Khát Vọng (Tô Hải),... các sáng tác ở hải ngoại của Nguyễn Thiên Đạo, Tôn Thất Tiết... Các sáng tác thanh nhạc, cũng như khí nhạc, có thể chia làm ba dòng: "'Thính phòng - Nhạc nhẹ - Dân gian"'. Cách phân chia này phổ biến trên toàn thế giới, nhưng không rành mạch.
Dòng thính phòng để chỉ các sáng tác nhạc cổ điển (nhạc nghệ thuật), phong cách thính phòng, và các ca khúc hát theo phong cách thính phòng. Một số các tác phẩm của các nhạc sĩ tiền chiến như Văn Cao ("Thiên Thai", "Trương Chi",...), Phạm Duy ("Tình ca", "Đường chiều lá rụng", "Chiều về trên sông", "Con đường Cái Quan"...), Cung Tiến ("Hương xưa,"...), phần lớn các tác phẩm nhạc đỏ của các nhạc sĩ Văn Cao ("Sông Lô",...), Đỗ Nhuận ("Du kích sông Thao", "Áo mùa Đông", opera "Cô Sao"...), Hoàng Việt, Hoàng Hiệp, Hoàng Vân ("Hồi tưởng", "Việt Nam muôn năm", "Guồng nước quay", "Vượt núi,"...),... và một số tác phẩm về sau. Các sáng tác này hay được chơi với dàn nhạc giao hưởng/thính phòng hay bán cổ điển. Một dòng khác hay được xem là tách ra từ nhạc cổ điển là dòng hành khúc, hay chơi với ban/dàn kèn đồng.
Dòng nhạc nhẹ (từ nhạc nhẹ dịch từ tiếng Nga sang), để chỉ các ca khúc hay được xem là nhạc thị trường, nhạc đại chúng, thường viết với giai điệu và cấu trúc đơn giản, chơi với ban nhạc nhẹ, phong cách acoustic, hay sử dụng các nhạc cụ điện tử. Các tác phẩm nổi tiếng như của Đặng Thế Phong, Đoàn Chuẩn, Nguyễn Đình Phúc, Nguyễn Văn Thương, Cung Tiến... thời tiền chiến, các nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Văn Phụng, Y Vân, Lam Phương, Song Ngọc,... trước 1975 ở miền Nam Việt Nam. Trong giai đoạn 1975 - 1978, dòng nhạc nhẹ bị Nhà nước Việt Nam cấm. Đến năm 1979 dòng nhạc này được cho phép nhưng bị giới hạn trong các sáng tác ca khúc chính trị, đến cuối thập niên 1980 được cho phép rộng rãi. Ngày nay nhạc nhẹ hay để chỉ cho dòng nhạc trữ tình (ballad); và nhạc trẻ hay còn gọi là nhạc đương đại, với các tác giả tiêu biểu sau 1975 như Trần Tiến, Phú Quang,... ở hải ngoại như Đức Huy,... và thế hệ trẻ hơn như Đức Trí, Việt Anh, Hồ Hoài Anh, Phan Mạnh Quỳnh...
Dòng nhạc dân gian, thực chất là nhạc mới nhưng âm hưởng dân gian, được chỉ cho các tác phẩm tân nhạc mang âm hưởng dân gian (dân ca,...), là sự pha trộn nhạc thính phòng với nhạc dân gian (nhiều sáng tác nhạc đỏ, nhạc quê hương như của Phan Huỳnh Điểu, Hoàng Vân, Nguyễn Văn Tý, Trần Hoàn, Thuận Yến, An Thuyên..., nhiều sáng tác của Phạm Duy,...), sự pha trộn nhạc nhẹ (ballad) với nhạc dân gian (của nhiều tác giả Y Vân, Lam Phương, Trúc Phương, Lê Dinh, Anh Bằng, Duy Khánh... (hay được xếp nhạc vàng), hay của Trần Tiến,...), sự pha trộn nhạc trẻ (đương đại) với nhạc dân gian (của Nguyễn Cường, Lê Minh Sơn, Trần Tiến...). Các ca khúc này thường hát có các nhạc cụ dân tộc, nhưng cũng có thể không.
Cách phân chia phổ biến nhất có tính đại chúng là theo các giai đoạn lịch sử.
Vào những năm đầu thế kỷ XX. Đây là giai đoạn có nhiều thay đổi trong nghệ thuật văn học Việt Nam nói chung, xuất hiện sau phong trào Thơ mới và dòng văn học lãng mạn vài năm. Chủ nghĩa tư bản của người Pháp cùng với nền văn hóa phương Tây được du nhập vào Việt Nam gây nên những xáo trộn lớn trong xã hội. Nhiều giá trị tư tưởng bền vững mấy ngàn năm trước đó lại bị giới trẻ Tây học xem thường, thậm chí trở thành đối tượng để mỉa mai của nhiều người. Giai cấp tư sản, tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị hình thành. Giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên (trí thức, viên chức cao cấp) đã có một lối sinh hoạt thành thị mới với nhiều tiện nghi theo văn minh Tây phương. Họ ở nhà lầu, đi ô tô, dùng quạt điện, đi nghe hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn mặc của thanh niên, mốt quần áo thay đổi mỗi năm. Những đổi thay về sinh hoạt cũng đồng thời với sự thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do sự tiếp xúc với văn hóa lãng mạn Pháp.
Âm nhạc của châu Âu theo chân người Pháp vào Việt Nam từ rất sớm. Đầu tiên chính là những bài thánh ca trong các nhà thờ Công giáo. Các linh mục Việt Nam được cũng được dạy về âm nhạc với mục đích truyền giáo. Tiếp đó, người dân được làm quen với "nhạc nhà binh" qua các đội kèn đồng. Tầng lớp giàu có ở thành thị được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây. Từ đầu, các bài hát châu Âu, Mỹ được phổ biến mạnh mẽ ở Việt Nam với các đĩa hát 78 vòng rồi qua những bộ phim nói. Những thanh niên yêu âm nhạc thời kỳ đó bắt đầu chơi mandolin, guitar và cả vĩ cầm, dương cầm.
Giai đoạn trước năm 1937 được xem là giai đoạn hình thành Tân nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Trần Quang Hải gọi đây là "giai đoạn tượng hình". Còn Phạm Duy cho rằng những năm đầu thập niên 1930 là "thời kỳ đi tìm nhạc ngữ mới". Giống như những nhà văn lãng mạn, thi sĩ của Phong trào Thơ mới chịu ảnh hưởng bởi văn học lãng mạn Pháp, các nhạc sĩ tiền chiến chịu ảnh hưởng bởi âm nhạc phương Tây.
Thời kỳ này, một số nhạc sĩ cải lương bắt đầu soạn các nhạc phẩm, thường được gọi là "bài tây theo điệu ta". Người tiêu biểu cho số đó là nghệ sĩ cải lương Tư Chơi, tức Huỳnh Thủ Trung. Ông đã viết các bài "Tiếng nhạn trong sương, Hòa duyên" và soạn lời Việt cho một vài ca khúc châu Âu thịnh hành khi đó để sử dụng trong các vở sân khấu như: Marinella trong vở "Phũ phàng", Pouet Pouet trong "Tiếng nói trái tim", Tango mystérieux trong "Đóa hoa rừng", La Madelon trong "Giọt lệ chung tình",... Nghệ sĩ Bảy Nhiêu cũng có một nhạc phẩm là "Hoài tình" rất được ưu chuộng.
Không chỉ các nghệ sĩ, trong giới thanh niên yêu nhạc cũng có phong trào chuyển ngữ các bài hát của Tino Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean, Georges Milton... mà họ yêu thích. Những nghệ sĩ sân khấu như Ái Liên, Kim Thoa đã được các hãng đĩa của người Pháp như Odéon, Béka mới thu âm các bài ta theo điệu tây. Khoảng thời gian từ 1935 tới 1938, rất nhiều các bài hát của Pháp như Marinella, C'est à Capri, Tant qu'il y aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j'aime éperdument, Les gars de la marine, L'Oncle de Pékin, Guitare d'amour, Créola, Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella... mà phần lớn là sáng tác của nhạc sĩ người Pháp Vincent Scotto và của Mỹ như Goodbye Hawaii, South of The Border... đã được phổ biến mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt, soạn bởi một nhà báo trẻ tên là Mai Lâm và bởi những tác giả vô danh khác. Ca sĩ Tino Rossi đặc biệt được giới trẻ yêu thích, đã có những hội Ái Tino được thành lập ở Hà Nội, Hải Phòng.
Năm 1930, trong thời gian bị tù ở Côn Đảo, nhạc sĩ Đinh Nhu đã viết ca khúc "Cùng nhau đi Hồng binh". Theo Trần Quang Hải thì "Cùng nhau đi Hồng binh" là ca khúc tân nhạc đầu tiên của Việt Nam. Từ giữa thập niên 1930, nhiều nhóm thanh niên yêu âm nhạc ở Hà Nội đã tập trung cùng sáng tác. Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn, ba thành viên của nhóm Tricéa đã viết nhiều ca khúc như "Bẽ bàng" (1935), "Nghệ sĩ hành khúc" (1936) của Lê Yên; "Tiếng sáo chăn trâu" (1935), "Bên hồ liễu" (1936), "Bóng ai qua thềm" (1937) của Văn Chung. Tại Huế, Nguyễn Văn Thương viết bản "Trên sông Hương" năm 1936. Lê Thương ở Hải Phòng cũng có "Xuân năm xưa" năm 1936. Giai đoạn từ 1935 tới 1938 được nhạc sĩ Phạm Duy gọi là "thời kỳ chuẩn bị của Tân nhạc Việt Nam".
Giai đoạn này bắt đầu từ chuyến lưu diễn xuyên Việt của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên. Ông khi đó ở Sài Gòn, là người Việt duy nhất tham gia hội Hiếu nhạc (Philharmonique). Ông bắt đầu hát nhạc Tây và đoạt được cảm tình của báo chí và radio. Năm 1937, ông phổ một bài thơ của người bạn và viết thành ca khúc đầu tiên của mình. Nhà thơ Nguyễn Văn Cổn, khi đó làm việc cho đài Radio Indochine, có đưa thơ cho Nguyễn Văn Tuyên và giúp ông soạn lời ca. Nguyễn Văn Cổn còn giới thiệu ông với Thống đốc Nam Kỳ. Thống đốc Nam Kỳ lúc bấy giờ là Pagès nghe ông hát và mời ông du lịch sang Pháp để tiếp tục học nhạc nhưng Nguyễn Văn Tuyên từ chối vì lý do gia đình. Ngược lại, ông lại đề nghị và được thống đốc Pagès tài trợ cho đi một vòng Việt Nam ra Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định để quảng bá những bài nhạc mới này. Năm 1938 nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên thực hiện một chuyến lưu diễn từ Nam ra Bắc nhằm cổ động cho âm nhạc cải cách[6]. Tới Hà Nội vào tháng 3 năm 1938, Nguyễn Văn Tuyên nói chuyện tại Hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc vận động cải cách, ông đã gặp một cử tọa đông đảo, ồn ào không trật tự. Một phần thất bại buổi đó do giọng nói địa phương của ông được ít người hiểu. Hơn nữa, có thể nhiều thanh niên Hà Nội lúc đó như đã cho việc hô hào của ông là thừa, vì các bài hát cải cách đã có sẵn ở đây. Tại Hội Trí Tri (Hải Phòng), Nguyễn Văn Tuyên đã may mắn hơn. Tuy số khán giả chỉ độ 20 người, nhưng Nguyễn Văn Tuyên đã có người thông cảm. Trong buổi nói chuyện này, một vài nhạc sĩ của Hải Phòng cũng trình một bản nhạc mới của miền Bắc. Sau đó nhân kỳ hội của trường Nữ học Hoài Đức, Nguyễn Văn Tuyên còn trình bày tại rạp chiếu bóng Palace một lần nữa. Lần này cử tọa rất tán thưởng giọng hát của ông trong bài "Bông cúc vàng".[6]
Từ năm 1945, tân nhạc Việt Nam bắt đầu có sự phân tách. Đa số các nhạc sĩ rời bỏ thủ đô và những thành phố lớn để tham gia kháng chiến. Nhưng một số vẫn ở lại trong vùng kiểm soát của Pháp hoặc có những nhạc sĩ theo kháng chiến rồi lại quay trở lại thành phố.
Với đề tài kháng chiến, ở miền Bắc, Đỗ Nhuận viết "Du kích sông Thao", "Nhớ chiến khu"; Hoàng Vân có "Hò kéo pháo"; Văn Chung viết "Quê tôi giải phóng"; Lê Yên viết "Bộ đội về làng";... Ở miền Trung, có "Bình Trị Thiên khói lửa" (Nguyễn Văn Thương); "Lời người ra đi" (Trần Hoàn); "Đoàn Vệ quốc quân", "Có một đàn chim" (Phan Huỳnh Điểu); "Du kích Ba Tơ" (Dương Minh Viên);... Còn ở miền Nam, một lớp nhạc sĩ trẻ hơn như Hoàng Việt với "Lên ngàn", "Nhạc rừng"; Nguyễn Hữu Trí với "Tiểu đoàn 307"; Trần Kiết Tường với "Anh Ba Hưng"; "Con kênh xanh xanh" của Ngô Huỳnh. Một đề tài sáng tác mới nữa của các nhạc sĩ là ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam. Lưu Hữu Phước đã viết "Chào mừng Đảng Lao động Việt Nam"; Lưu Bách Thụ viết "Biết ơn Cụ Hồ";...
Tham gia kháng chiến, Văn Cao đã sửa lời "Bến xuân" thành "Đàn chim Việt" và viết "Trường ca Sông Lô, Ca ngợi Hồ Chủ tịch". Các ca khúc này đánh dấu sự ra đời thực sự của nhạc kháng chiến, hay "nhạc đỏ". Tuy vậy, ngay trong số những nhạc sĩ trên, nhiều người vẫn tiếp tục viết các ca khúc lãng mạn và được xếp vào dòng nhạc tiền chiến như "Sơn nữ ca" (Trần Hoàn); "Dư âm" (Nguyễn Văn Tý); "Nụ cười sơn cước" (Tô Hải); "Tình quê hương" (Việt Lang);...
Tham gia kháng chiến, Phạm Duy cũng có "Chiến sĩ vô danh, Quê nghèo, Bà mẹ Gio Linh,..." Nhưng ông cũng viết "Bên cầu biên giới" và bài hát bị coi là không hợp với hoàn cảnh chiến đấu khi đó và về sau ông rời bỏ miền Bắc vào Nam. Ở các vùng đô thị thuộc kiểm soát của Pháp, những nhạc sĩ vẫn sáng tác nhạc lãng mạn như Văn Giảng với "Ai về sông Tương"; Lâm Tuyền với "Tiếng thời gian"; Văn Phụng với "Mơ khúc tương phùng";... Lê Thương vào miền Nam viết các bản nhạc hài hước, trào phúng "Hòa bình 48, Liên Hợp Quốc". Ở Hà Nội, năm 1947, Nguyễn Đình Thi viết ca khúc "Người Hà Nội". Trong giai đoạn này, tại Pháp trong những năm 1949 tới 1951, hãng đĩa Oria đã thu một số đĩa nhựa 78 vòng tiếng hát của các ca sĩ Hải Minh, Bích Thuận, Hoàng Lan, Văn Lý những ca khúc "Hội nghị Diên Hồng" (Lưu Hữu Phước); "Chiến sĩ vô danh" (Phạm Duy); "Tiếng thùy dương, Hòa bình 48" (Lê Thương), "Trách người đi" (Đan Trường);...
Sau thành công của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên và được sự ủng hộ của báo chí, nhiều nhóm nhạc được thành lập và các nhạc sĩ phổ biến rộng rãi những tác phẩm của mình. Và ngay từ thời kỳ này, nhiều nhạc sĩ tài năng đã ghi dấu ấn với các nhạc phẩm trữ tình lãng mạn. Một số thuật ngữ được dùng để chỉ nền tân nhạc Việt Nam giai đoạn này, phổ biến nhất là "nhạc tiền chiến". Dòng nhạc tiền chiến còn kéo dài tới năm 1954 và cả sau 1954 ở miền Nam.
Những bài hát cải cách nhanh chóng được giới sinh viên, trí thức ái mộ đón nhận, tuy vậy nó cũng gây nên nhiều ý kiến khác nhau. Các trí thức phong kiến thì chỉ trích còn giới dân nghèo thì thờ ơ. Với phong cách trữ tình lãng mạn, các ca khúc tiền chiến có lời ca mang tính văn học cao. Ngoài các ca khúc về tình yêu, chủ đề lịch sử, yêu nước là những đề tài chính của nhạc tiền chiến.
Hiệp định Genève năm 1954 tạm chia Việt Nam thành 2 vùng tập trung quân sự để chờ tổng tuyển cử toàn quốc năm 1956. Chính quyền Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa từ chối thi hành tổng tuyển cử theo hiệp định, hành động này đã chia Việt Nam thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam.
Tại miền Bắc, nhạc kháng chiến tiếp tục và cùng với nhạc dân ca, truyền thống là những thể loại âm nhạc duy nhất được phát trên đài phát thanh Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ở miền Bắc. Các ca khúc nhạc đỏ để cổ vũ tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, phục vụ chiến tranh, truyền đạt những chính sách của nhà nước, khuyến khích tình yêu lý tưởng cộng sản, cũng có cả những bài hát trữ tình, thể hiện tình yêu quê hương đất nước hoặc cổ vũ lao động, xây dựng.
Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, tân nhạc cũng như điện ảnh, có nhiệm vụ chính là cổ vũ chiến đấu. Dòng nhạc Cách mạng chiếm vị trí độc tôn. Bên cạnh lớp nhạc sĩ đầu như Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác, sau đó tới Hoàng Vân, Doãn Nho, Tô Hải, Hồ Bắc, Huy Thục, đã xuất hiện một số nhạc sĩ trẻ hơn Trọng Bằng, Cao Việt Bách...
Việc một số nhạc sĩ được gửi đi học ở các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc... và nhiều đoàn ca múa chuyên nghiệp của các quốc gia Liên Xô và Đông Âu tới Hà Nội trình diễn đã tạo nên sự ảnh hưởng tới tân nhạc Việt Nam.
Bốn chủ đề sáng tác chính của các nhạc sĩ miền Bắc thời kỳ này là:
Trong những năm 1954–1975, do chịu ảnh hưởng của Liên Xô, các nhạc sĩ miền Bắc tập trung vào sáng tạo âm nhạc với các kỹ thuật nhạc thính phòng và phô diễn các khả năng thanh nhạc còn âm nhạc miền Nam cùng thời có số lượng bài hát phong phú và sự tự do trong chủ đề sáng tác. Một số tác phẩm tiêu biểu thuộc khuynh hướng này là "Tôi là người thợ lò, Guồng nước quay, Cây bàng trên sân nhà máy, Bài thơ gửi Thái Nguyên thơ Lê Nguyên (Hoàng Vân)", "Tình ca (Hoàng Việt)", "Xa khơi (Nguyễn Tài Tuệ)", "Người con gái sông La (Doãn Nho)", "Người lái đò trên sông Pô Kô (Cầm Phong)", "Đường chúng ta đi (Huy Du)"... Với các thay đổi đột ngột trong cả nhịp điệu và phong cách, những tác phẩm này yêu cầu ca sĩ phải có một kỹ thuật thanh nhạc tốt mới có thể trình bày trung thành với ý tưởng của tác giả. Ở miền Bắc xuất hiện nhiều sáng tác cho giàn nhạc giao hưởng, nhiều vở nhạc kịch theo phong cách phương Tây. Hoạt động đào tạo, nghiên cứu, phê bình, biểu diễn âm nhạc cũng phát triển mạnh. Đây là thời kỳ âm nhạc miền Bắc có sự trưởng thành đáng kể về mặt kỹ thuật sáng tác và biểu diễn do áp dụng các kỹ thuật phương Tây vào hoạt động sáng tác và biểu diễn âm nhạc. Trong thời kỳ này, xuất hiện nhiều nhạc sĩ trẻ được đào tạo bài bản, các nhạc sĩ đương thời cũng được bồi dưỡng nghiệp vụ.
Ngoài các ca khúc phổ thông, nhiều thể loại khác đã được các nhạc sĩ thể nghiệm. Ảnh hưởng bởi các màn hợp xướng do các đoàn văn nghệ Liên Xô và Đông Âu trình diễn ở Hà Nội, một số nhạc sĩ Việt Nam đã soạn các ca khúc cho nhiều bè như năm 1955 có "Hò đẵn gỗ" của Đỗ Nhuận, "Sóng cửa Tùng" của Doãn Nho, "Chiến sĩ biên phòng" của Huy Thục, năm 1956 và 1957 có "Ta đã lớn", "Hò kiến thiết" của Nguyễn Xuân Khoát, "Tiếng chim" của Lưu Cầu, "Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy" của Tô Hải năm 1958...
Một số vở thanh xướng kịch cũng xuất hiện: "Vượt sông Cái" (Nguyễn Xuân Khoát) viết năm 1955, "Nguyễn Văn Trỗi" (Đàm Linh, theo lời thơ Chu Điền) năm 1965. Một vài thể loại nữa là các ca kịch nhỏ (như "Tục lụy" của Lưu Hữu Phước), kịch hát nói ("Căn nhà màu hồng ngọc" của Hoàng Vân). Hoàng Vân là người tiên phong cho thể loại trường ca với các bản: "Hà Nội – Huế – Sài Gòn, Bài thơ gửi Thái Nguyên" của (lời Lê Nguyên), "Việt Nam muôn năm, Tôi là người thợ lò, Vượt núi, Tuổi lên mười, Hát dưới cờ búa liềm,Thành phố chúng ta nhà máy chúng ta,..."
Sự xuất hiện các bộ phim điện ảnh cách mạng cũng dẫn tới nhiều ca khúc cho phim được sáng tác. Tác giả nhạc phim đầu tiên là Nguyễn Đình Phúc với phim "Chung một dòng sông" và "Lửa trung tuyến". Tiếp đó tới các nhạc sĩ khác như Trọng Bằng với "Cù Chính Lan", "Biển lửa"; Hồng Đăng với "Hà Nội mùa chim làm tổ"; Hoàng Vân với "Con chim vành khuyên, Nổi gió, Mối tình đầu, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Khói trắng, Em bé Hà Nội, Hẹn gặp lại Sài Gòn"...
Một số tác phẩm giao hưởng cũng để lại dấu ấn lớn cho nền âm nhạc miền bắc vào thời điểm này: "Hồi tưởng" (1960), "Điện Biên Phủ" (symphonie with choral), ballet "Chị Sứ", của Hoàng Vân, Opéra "Cô Sao" của Đỗ Nhuận.
Sinh hoạt âm nhạc cổ điển được duy trì với những tác phẩm châu Âu và các tác phẩm của các nhạc sĩ Việt nam cũng phong phú trong thể loại nhạc thính phòng: "Fugue for piano", "Suite for hautboy and piano, Rhapsodie cho violon, Solo for basson" ""Hành khúc con voi"" (elephant marche),"Solo for flute" ""Vui được mùa"", "Hoa thơm bướm lượn", "Concerto for piano and orchestra" của Hoàng Vân.
Ở miền Nam, với sự tự do, đa dạng hơn trong chủ đề sáng tác nghệ thuật, các nhạc sĩ đã viết các ca khúc thuộc nhiều thể loại. Dòng nhạc tiền chiến được Cung Tiến, Phạm Đình Chương tiếp tục. Một số nhạc sĩ trẻ như Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương, Vũ Thành An sáng tác các bản tình ca mới. Dòng nhạc vàng xuất hiện với các tên tuổi tiêu biểu Hoàng Thi Thơ, Trúc Phương, Lam Phương. Văn hóa Âu Mỹ tràn ngập miền Nam dẫn đến sự hình thành dòng nhạc trẻ. Bên cạnh đó là các phong trào Du ca và dòng nhạc phản chiến. Một nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc phản chiến này và cả tình ca là Trịnh Công Sơn.
Khác với miền Bắc, ở miền Nam giai đoạn 1954-1975, các nghệ sĩ về cơ bản được tự do sáng tác. Cũng như điện ảnh, tân nhạc ở miền Nam thời kỳ này hình thành một thị trường sôi động. Các dòng nhạc tiến chiến, tình khúc, nhạc vàng đều có đông đảo người nghe và các nghệ sĩ riêng. Dòng nhạc tiền chiến được các giọng ca hàng đầu như Thái Thanh, Khánh Ly, Lệ Thu, Hà Thanh, Duy Trác tiếp tục. Nhạc vàng của các nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, Trần Thiện Thanh, Lam Phương được các ca sĩ Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền,... thể hiện. Các tình khúc mới của Ngô Thụy Miên, Lê Uyên Phương, Từ Công Phụng, Vũ Thành An được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt qua các tiếng hát Khánh Ly, Lê Uyên, Lệ Thu. Một số ca sĩ, nhạc sĩ, ban nhạc trẻ xuất hiện đánh dấu sự ra đời của dòng nhạc trẻ như Elvis Phương, Nguyễn Trung Cang, Quốc Dũng, Lê Hựu Hà. Các hãng băng nhạc Sơn Ca, Trường Sơn, Shotguns... được phát hành đều đặn.
Một số nhạc sĩ di cư vào miền Nam năm 1954 như Hoàng Trọng, Văn Phụng,... hoặc từ trước đó như Lê Thương, Phạm Duy... và những nhạc sĩ trẻ hơn như Phạm Đình Chương, Cung Tiến... đã tiếp tục dòng nhạc tiền chiến tại miền Nam.
Những nhạc sĩ này trong khoảng 1954 đến 1975 có những sáng tác đa dạng, trong đó nhiều ca khúc của họ vẫn được xếp chung vào dòng nhạc tiền chiến; một số tác phẩm nổi tiếng như "Mộng dưới hoa", Trường ca "Hội trùng dương" của Phạm Đình Chương, "Hương xưa" của Cung Tiến,.... Những nhạc phẩm tiền chiến thường xuyên được trình diễn và thu âm bởi những tiếng hát hàng đầu như Khánh Ly, Thái Thanh, Lệ Thu, Duy Trác, Hà Thanh,...
Một lớp nhạc sĩ trẻ hơn xuất hiện với các bản tình ca mới. Khác với dòng nhạc tiền chiến thường mượn cảnh mùa thu, mưa... để nói lên tình cảm của mình, những nhạc sĩ này có cách thể hiện trực tiếp hơn như Vũ Thành An với các "Bài không tên", Lê Uyên Phương với các ca khúc...
Giai đoạn này, bên cạnh nhạc sĩ tiền bối Phạm Duy vẫn sáng tác đều đặn những ca khúc giá trị ("Cỏ hồng", "Trả lại em yêu", "Mùa thu chết,"...). Còn xuất hiện thêm những nhạc sĩ với phong cách riêng.
Năm 1965, Vũ Thành An viết ca khúc đầu tay "Tình khúc thứ nhất", phổ thơ Nguyễn Đình Toàn. Ngay từ ca khúc đầu tiên này, Vũ Thành An được nổi danh. Tiếp sau đó, ông viết một loạt Bài không tên được đánh số cùng một vài ca khúc có tên như "Em đến thăm anh đêm 30". Những nhạc phẩm của Vũ Thành An được yêu thích rộng rãi ở miền Nam khi đó, thường xuyên được nghe thấy trong các quán cà phê, trên sóng đài phát thanh, trong các băng nhạc.
Ngô Thụy Miên bắt đầu với "Chiều nay không có em" được viết năm 1963, nhưng đến với công chúng vào năm 1955. Tiếp theo, ông phổ nhạc cho một số bài thơ của thi sỹ Nguyên Sa và giành được thành công rực rỡ. Các ca khúc "Niệm khúc cuối", "Mắt biếc", "Áo lụa Hà Đông" đã ghi dấu ấn của Ngô Thụy Miên trong thời kỳ đó. Năm 1974, Ngô Thụy Miên thực hiện băng nhạc đầu tay "Tình Ca Ngô Thụy Miên" gồm 17 tình khúc đã được viết trong khoảng thời gian 1965 tới 1972. Với sự góp mặt của các ca sĩ danh tiếng Khánh Ly, Duy Trác, Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan... và nhạc sĩ hòa âm Văn Phụng, cuốn băng tạo được thành công rực rỡ.
Từ Đà Lạt, đôi nghệ sĩ Lê Uyên và Phương xuất hiện mang đến cho tân nhạc những sắc thái mới với các ca khúc khắc khoải, nồng nàn. Bắt đầu từ nhạc phẩm đâu tay "Buồn đến bao giờ" viết năm 1960 tại Pleiku, Lê Uyên Phương với những "Bài ca hạnh ngộ", "Còn nắng trên đồi", "Dạ khúc cho tình nhân", "Lời gọi chân mây", "Vũng lầy của chúng ta"... được giới trẻ nồng nhiệt đón nhận.
Một gương mặt nổi danh nữa của dòng nhạc này là nhạc sĩ Từ Công Phụng. Khởi sự từ ca khúc đầu tay "Bây giờ tháng mấy", các nhạc phẩm tiếp theo của Từ Công Phụng đều mang không khi mang mác như "Lời cuối", "Trên ngọn tình sầu", "Mùa xuân trên đỉnh bình yên", "Giọt lệ cho ngàn sau", "Mắt lệ cho người"... Đặc biệt sau 1975 ở hải ngoại, các ca khúc của Từ Công Phụng còn được biết đến nhiều hơn qua giọng ca Tuấn Ngọc trình bày rất thành công.
Một số nhạc sĩ khác cũng viết các tình khúc nổi tiếng rất được ưa chuộng vào thời gian này như Hoàng Nguyên với "Ai lên xứ hoa đào", "Cho người tình lỡ", Quốc Dũng với "Đường xưa", "Cơn gió thoảng", Nguyễn Ánh 9 với "Không", "Buồn ơi xin chào mi", Văn Phụng với "Yêu", "Tình"; Khánh Băng với "Sầu đông", "Vọng ngày xanh"; Y Vân với "Buồn", "Thôi", "Ảo ảnh", Anh Bằng với "Khúc Thụy du", "Nỗi lòng người đi"; Trần Trịnh với "Lệ đá"; Nguyễn Văn Đông với "Chiều mưa biên giới", "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp"; Phạm Trọng Cầu, học ở Paris, cũng đã viết "Mùa thu không trở lại"...
Phạm Đình Chương cũng có "Nửa hồn thương đau" phổ từ thơ Thanh Tâm Tuyền rất nổi tiếng, hay "Người đi qua đời tôi" phổ thơ Trần Dạ Từ. Lê Trọng Nguyễn nổi danh với "Chiều bên giáo đường", "Lá rơi bên thềm" và đặc biệt "Nắng chiều", ca khúc còn được biết đến ở Hồng Kông, Đài Loan và Nhật Bản. Hàng Trọng thành công với các bài hát theo điệu tango "Ngỡ ngàng", "Lạnh lùng", "Tiến bước sang ngang".
Bên cạnh các tình khúc, dòng nhạc vàng cũng đặc biệt phổ biến. Với các bài hát giai điệu nhẹ nhàng, đơn giản, dòng nhạc này đã thu hút một số lượng lớn khán giả bình dân. Trong hồi ký của mình[1], Phạm Duy viết: "Đầu thập niên 70 là lúc Nhạc Việt, trong phạm vi ca khúc, phát triển đến tột độ. Có sự thành công của những bài hát thông thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm - mệnh danh là nhạc vàng - với những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu phương và lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng lại rất cần thiết cho vài tầng lớp xã hội trong thời chiến."
Từ trước 1963, các nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, Lam Phương đã soạn các bản như "Gạo trắng trăng thanh", "Chiều hành quân",... Nhưng phải tới sau 1963, khi nền Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam bắt đầu thì các bài hát về Tình và Lính mới trở nên thực sự phổ biến. Đây cũng là hai đề tài chủ yếu của nhạc vàng.
Hoàng Thi Thơ là một nhạc sĩ thành công trong nhiều lĩnh vực. Ông từng là trưởng đoàn nghệ thuật của Việt Nam Cộng hòa đi trình diễn ở một số nước. Hoàng Thi Thơ cũng từng tham gia sản xuất điện ảnh với phim "Người cô đơn" nói về đề tài âm nhạc. Trên lĩnh vực sáng tác ông viết nhiều bản với âm hưởng dân tộc như "Trăng rụng xuống cầu", "Rước tình về quê hương", "Tình ca trên lúa", "Đám cưới trên đường quê", các bản tình cảm như "Chuyện tình người trinh nữ tên Thi", "Đường xưa lối cũ"... Ông còn soạn một vài vở kịch hát "Cô gái điên", "Ả đào say".
Lam Phương được biết tới với các bản nhạc tình "Bài tango cho em", "Em là tất cả", "Tình bơ vơ"... hoặc các bài chủ đề khác như "Đoàn người lữ thứ", "Cho em quên tuổi ngọc", "Kiếp nghèo", "Chuyến đò vỹ tuyến"...
Các ca khúc với chủ đề Lính, người tiêu biểu nhất là Trần Thiện Thanh. Vốn cũng là một ca sĩ với nghệ danh Nhật Trường, ông đã sáng tác và tự trình diễn nhiều bài hát về hình ảnh người lính Việt Nam Cộng hòa: "Biển mặn", "Chiều trên phá Tam Giang", "Hoa trinh nữ", "Rừng lá thấp", "Tâm sự người lính trẻ", "Tình thư của lính",... Một số ca khúc khác của ông cũng rất phổ biến như "Chiếc áo bà ba", "Khi người yêu tôi khóc", "Gặp nhau làm ngơ", "Mùa đông của anh". Một tác giả viết về lính khác là Trúc Phương, tác giả của "Đò chiều", "Kẻ ở miền xa", "Tàu đêm năm cũ", "Trên bốn vùng chiến thuật,"... và "Ai cho tôi tình yêu", "Đôi mắt người xưa", "Thói đời", "Mưa nửa đêm", "Tình thắm duyên quê"...
Những bản nhạc tình bi lụy còn có Châu Kỳ với "Giọt lệ đài trang", "Được tin em lấy chồng", "Sao chưa thấy hội âm", "Con đường xưa em đi,..." Một vài bản khác rất nổi danh như "Người yêu cô đơn" (Đài Phương Trang); . Ngoài ra còn một số ca khúc như "Phiên gác đêm xuân" (Nuyễn Văn Đông); "Người yêu của lính" (Anh Chương); "Sang ngang" (Đỗ Lễ); "Căn nhà ngoại ô" (Anh Bằng);...
Giọng ca tiêu biểu của nhạc vàng, đầu tiên có thể kể đến Duy Khánh. Tiếp theo là ca sĩ Chế Linh, cũng là tác giả của ca khúc "Đêm buồn tỉnh lẻ"[2]. Các giọng ca nữ có Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hoàng Oanh. Cùng với các nhạc sĩ, các ca sĩ này cũng góp phần định hình dòng nhạc vàng với cách hát khác hẳn các ca sĩ của nhạc tiền chiến hay tình khúc 1954-1975.
Vào cuối thập niên 1950, nhạc nhạc rock and roll châu Âu và Mỹ bắt đầu thâm nhập thị trường miền Nam. Một số thanh niên trẻ con các thương gia, các học sinh học theo chương trình của Pháp thường nghe các ca khúc của Mỹ và Pháp. Nhưng phải tới khoảng thời gian 1963-1965, phong trào nghe các ca khúc phương Tây này mới thực sự bành trướng qua các buổi tổ chức khiêu vũ tại gia. Các danh ca của Mỹ như Paul Anka, Elvis Presley, The Platters... của Anh như Cliff Richard, The Shadows, The Beatles, The Rolling Stones... của Pháp như Johnny Halliday, Sylvie Vartan, Françoise Hardy, Christophe, Dalida... trở thành thần tượng của giới trẻ Sài Gòn.
Đầu những năm 1960, nhạc trẻ trở thành một hiện tượng của âm nhạc Việt Nam. Những ban nhạc trẻ như C.B.C., The Dreamers, The Uptight, The Blue Jets, The Spotlights (sau đổi thành Strawberry Four với Tùng Giang, Đức Huy, Tuấn Ngọc và Billy Shane) và một số ca sĩ Việt thích kèm theo tên ngoại quốc bên cạnh tên Việt như Elvis Phương, Pauline Ngọc, Prosper Thắng, Julie Quang, Carol Kim... nổi danh với các bạn nhạc ngoại quốc hát bằng lời Anh hoặc Pháp. Những hộp đêm Mỹ ngày càng nhiều từ năm 1968 khuyến khích nhiều ca sĩ hát nhạc Mỹ. Nhiều bản nhạc ngoại quốc nổi tiếng được các nhạc sĩ Phạm Duy, Quốc Dũng, Nam Lộc, Tùng Giang, Trường Hải... đặt lời Việt.
Không chỉ dừng lại ở việc hát nhạc ngoại quốc, nhiều nhạc sĩ tự sáng tác nhạc rock. Một trong những người đầu tiên có thể kể tới là Khánh Băng với "Sầu đông", "Có nhớ đêm nào", "Tiếng mưa rơi". Các nhạc sĩ khác như Quốc Dũng, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà cũng là những người đầu tiên Việt hóa thể loại nhạc này.
Quốc Dũng, với nhiều ca khúc nổi tiếng, cùng với Thanh Mai tạo thành một đôi song ca được nhiều mến mộ. Ban Phượng Hoàng của Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà và ca sĩ Elvis Phương trở thành một trong nhưng ban nhạc thành công nhất của Sài Gòn giai đoạn đó.
Tới năm 1971, đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ chức tại sân Hoa Lư do Trường Kỳ, Tùng Giang và Nam Lộc tổ chức. Sự thành công của đại hội nhạc trẻ đầu tiên ở Sài Gòn đã đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ. Tiếp theo đó nhiều đại nhạc hội khác được tiếp tục được tổ chức: năm 1971 tại trường trung học Taberd với hơn 10.000 người nghe, năm 1974 tại sở thú với trên 20.000 khán giả.
Cho tới sau 1975, nhiều bản nhạc nước ngoài vẫn ăn khách trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Một vài ca khúc còn được các ca sĩ trẻ trong nước hát, như "Bang bang" do Phạm Duy đặt lời Việt được Mỹ Tâm hát lại vào những năm đầu thập niên 2000.
Khi cuộc chiến tranh Việt Nam ngày càng lan rộng, ở miền Nam, không chỉ có các nhạc sĩ sáng tác các bài hát ca ngợi người lính Việt Nam Cộng hòa mà còn xuất hiện nhiều ca khúc phản chiến. Người tiêu biểu nhất cho phong trào nhạc phản chiến này là Trịnh Công Sơn.
Bắt đầu từ khoảng năm 1966, những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn qua tiếng hát Khánh Ly đã chinh phục giới trẻ, đánh trúng tâm lý chán ghét chiến tranh, mong muốn hòa bình. Năm 1968, sau sự kiên Tết Mậu Thân, Trịnh Công Sơn tung ra tập nhạc "Kinh Việt Nam". Năm 1969, Trịnh Công Sơn cho ra tiếp tập "Ta phải thấy mặt trời", rồi sau đó là "Ca khúc da vàng". Với các ca khúc "Nối vòng tay lớn", "Bài ca dành cho những xác người", "Gia tài của mẹ"... Trịnh Công Sơn kêu gọi mọi người ngừng chiến tranh, nêu lên một hình ảnh Việt Nam đau thương vì cuộc chiến.
Song song với nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, sau Tết Mậu Thân năm 1968, mầm mống chống đối chính quyền Nguyễn Văn Thiệu bắt đầu nảy nở ở các trường đại học tại Sài Gòn. Nhạc sĩ Miên Đức Thắng đã sáng tác các ca khúc như "Hát từ cánh đồng hoang", "Lớn mãi không ngừng". Phong trào học sinh và sinh viên xuống đường xuất hiện cùng với "Hát cho đồng bào tôi nghe", trong đó hai nhạc sĩ tiêu biểu là Trần Long Ẩn và Tôn Thất Lập. Năm 1971, một tập nhạc khác xuất hiện là "Hát cùng đồng bào ta". Những bài hát xuống đường được giới sinh viên học sinh hát nhiều nhất lúc đó là: "Sức mạnh nhân dân" (Trương Quốc Khánh); "Tình nghĩa Bắc Nam" (Nguyễn Văn Sanh); "Dậy mà đi" (Nguyễn Xuân Tấn);... Phạm Thế Mỹ cũng viết "Hoa vẫn nở trên đường quê hương", "Thương quá Việt Nam".
Phạm Duy cũng sáng tác một số ca khúc phản đối cuộc chiến tranh "Kỷ vật cho em", "Chuyện hai người lính", "Khi tôi về", "Tình khúc trên chiến trường tồi tệ", "Thầm gọi tên nhau trên chiến trường tồi tệ", "Tưởng như còn người yêu,"... Trong đó, ca khúc "Kỷ vật cho em" phổ từ thơ Linh Phương trở nên rất nổi tiếng, được các danh ca của Sài Gòn khi đó như Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly hát thường xuyên tại các phòng trà, vũ trường gây nên các tác động mạnh mẽ tới khán giả.
Lê Hựu Hà cũng là một người có nhiều sáng tác trong phong trào phản đối chiến tranh tiêu biểu là bài hát "Hãy nhìn xuống chân"...
Năm 1966, hai nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang và Đinh Gia Lập thành lập phong trào Du ca, là một đoàn thể hoạt động về văn hóa và văn nghệ phục vụ cộng đồng, xuất hiện cùng lúc với phong trào làm công tác xã hội của sinh viên, học sinh. Chủ tịch phong trào từ 1967 là dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ và đến năm 1972 được thay thế bởi Đỗ Ngọc Yến. Trưởng xưởng Du ca do nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang điều hành, đến năm 1972 được thay thế bởi Ngô Mạnh Thu. Phong trào được Bộ Quốc gia Giáo dục và Thanh niên Việt Nam Cộng hòa công nhận chính thức và cấp giấy phép hoạt động trên toàn quốc kể từ ngày 24 tháng 1 năm 1969.
Du ca quy tụ khá nhiều các nhạc sĩ tên tuổi, cũng như nhiều nhạc sĩ trẻ xuất phát từ phong trào: Nguyễn Đức Quang, Trầm Tử Thiêng, Anh Việt Thu, Trần Tú, Nguyễn Quyết Thắng... Phạm Duy cũng có đóng góp trong phong trào du ca với một số bài như "Sức mấy mà buồn", "Thôi bỏ đi tám".
Du ca ra đời đúng lúc mọi người đang đòi hỏi một nền văn nghệ sống động, thức tỉnh và mới lạ. Những loại nhạc mà phong trào du ca thường sử dụng là Thanh niên ca, Thiếu nhi ca, Sinh hoạt ca, Nhận thức ca, Sử ca, Dân ca, những bài hát ca ngợi tình yêu con người và thân phận quê hương. Nhiều bài hát của du ca đã trở nên quen thuộc như "Việt Nam, Việt Nam" (Phạm Duy); "Việt Nam quê hương ngạo nghễ" (Nguyễn Đức Quang), "Hát từ tim, hát bằng hơi thở" (Nguyễn Quyết Thắng); "Anh sẽ về" của Nguyễn Hữu Nghĩa, thơ Kinh Kha, "Xin chọn nơi này làm quê hương" của Nguyễn Đức Quang.
Những ca khúc trong Phong trào Du ca có mục đích kêu gọi thanh niên hãy tự hào, tin tưởng và hy vọng nơi tương lai. Trước năm 1975, phong trào du ca có tác dụng sâu mạnh đối với giới trẻ qua các đoàn, toán ca như Con Sáo Huế, Du ca Áo Nâu, Du ca Lòng mẹ, Du ca Trùng Dương... Họ trình diễn ở khắp nơi miền Nam khi đó, trong trường học, ngoài sân cỏ, trên sân khấu, trong các đoàn thể bạn, hướng đạo, hay Thanh sinh công, Gia đình Phật tử.
Du ca cũng đã phát hành một số tuyển tập nhạc như: "Tuyển tập Du ca 1, Du ca 2, Du ca 3, Những bài ca khai phá, Ta đi trên dòng lịch sử, Những điều trông thấy, Những khuôn mặt Duca, Hát cho những người sống sót, Anh hùng ca, Sinh hoạt ca".
Trong thời kỳ từ 1954 đến 1975, Phạm Duy vẫn là nhạc sĩ có sức sáng tác mạnh mẽ và các ca khúc của ông cũng thuộc nhiều thể loại. Tiếp tục những ca khúc "dân ca mới", Phạm Duy còn sáng tác nhiều tình khúc như "Nghìn trùng xa cách", "Trả lại em yêu", "Con đường tình ta đi", "Nha Trang ngày về", "Cỏ hồng", "Mùa thu chết", "Nước mắt mùa thu"... Ông còn có các bài hát dành cho thiếu nhi: "Ông trăng xuống chơi", "Chú bé bắt được con công", "Thằng Bờm", "Bé bắt dế", "Đưa bé đến trường", "Đốt lá trên sân"
Các trường ca "Con đường cái quan", "Mẹ Việt Nam" cũng được Phạm Duy viết trong thời kỳ này. Ngoài ra có thể kể đến Đạo ca, Tâm ca... Trong các phong trào Nhạc trẻ, Du ca, Nhạc phản chiến Phạm Duy đều có tham gia với nhiều ca khúc.
Trịnh Công Sơn, ngoài các ca khúc phản chiến, ông là tác giả của rất nhiều tình khúc, giúp ông trở thành một trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất của thời kỳ đó và cả sau này. Từ sáng tác được coi là đầu tay "Ướt mi" xuất bản năm 1959, Trịnh Công Sơn tiếp tục thành công với "Diễm xưa", "Tuổi đá buồn", "Tình xa", "Tình nhớ"... Cùng với tiếng hát Khánh Ly, các bản tình ca của Trịnh Công Sơn đã chinh phục giới thanh niên miền Nam khi đó, trở thành một hiện tượng của tân nhạc.
Một điểm khác biệt giữa âm nhạc miền Bắc và miền Nam khi đó là trong khi ở miền Bắc, các ca khúc chỉ được phát trên đài phát thanh, qua các buổi biểu diễn của những đội văn công... thì tại miền Nam, âm nhạc hình thành một thị trường sôi động với nhiều hãng băng đĩa. Các ca khúc được phát trên sóng phát thanh, truyền hình, được trình diễn tại các vũ trường, phòng trà và các đại nhạc hội.
Những người đi đầu trong việc sản xuất băng đĩa có thể kể đến Phạm Mạnh Cương, Nguyễn Văn Đông, Tùng Giang,... Những băng nhạc Sơn ca, Trường Sơn, Nhã ca, Nhạc trẻ, Shotguns, Sóng nhạc... được phát hành đều đặn. Với lợi nhuận từ các băng nhạc, tập nhạc, các nhạc sĩ nổi tiếng có được thu nhập rất cao.
Phòng trà và vũ trường là hai điểm trình diễn phổ biến của Sài Gòn giai đoạn đó. Những phòng trà như Đêm Màu Hồng, Queen Bee,... là điểm yêu thích của nhiều khán giả nghe nhạc.
Sau khi Việt Nam thống nhất, nền tân nhạc Việt Nam có nhiều thay đổi thăng trầm. Để xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, Việt Nam đã tiến hành cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng và đấu tranh cải tạo công thương nghiệp, cải cách ruộng đất. Trong nước các dòng nhạc vàng bị cấm hoàn toàn vì không phù hợp với chủ trương chính trị, các ca sĩ nhạc vàng được khuyến khích chuyển sang hát nhạc truyền thống cách mạng (nhạc đỏ). Nhiều ca sĩ & nhạc sĩ Việt Nam phải vượt biên sang định cư tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác. Nhiều bài hát tiền chiến và tình ca bị hạn chế lưu hành. Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra.
Đề tài sáng tác chủ yếu trong giai đoạn này là:
Các nhạc sĩ tiêu biểu trong giai đoạn này là: Diệp Minh Tuyền, Hoàng Vân, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Thế Hiển, Nguyễn Nam, Nguyễn Văn Hiên, An Thuyên, Phó Đức Phương, Phong Nhã, Trần Tiến, Nguyễn Ngọc Thiện...
Đặc biệt, Ca sĩ kiêm nhạc sĩ Trần Tiến chịu ảnh hưởng của phong trào du ca trước năm 1975 nên đã có nhiều sáng tác mới lạ thời bấy giờ nên được công chúng yêu nhạc đón nhận với các ca khúc: "Mặt Trời bé con, Tùy hứng lý qua cầu, Tạm biệt chim én",...
Các ca sĩ thành danh như: Cẩm Vân, Bảo Yến, Nhã Phương, NSƯT Quang Lý, Tuấn Phong, Cao Minh, Thế Hiển, Trần Tiến,...
Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển mạnh mẽ. Hội Âm nhạc Việt Nam được thành lập. Hằng năm đều tổ chức nhiều chuyến du khảo hội trại sáng tác theo những chủ đề do nhà nước đặt hàng.
Các trường âm nhạc, văn hoá nghệ thuật được quan tâm thành lập tuy nhiên chỉ mới dừng lại ở quy mô dạy dòng nhạc thính phòng cỏ điển và âm nhạc tuyên truyền.
Nhiều văn nghệ sĩ có cơ hội giao lưu học tập tại Liên Xô (Nga) đã du nhập nhiều bản nhạc Liên Xô được hát bằng tiếng Nga hoặc dịch ra lời Việt: "Một triệu đóa hoa hồng" (Cẩm Vân trình bày), "Chiều hải cảng, đôi bờ, Cây thùy dương,..."
Sau Đại hội Đảng lần VI đề ra chủ trương đổi mới tư duy, xóa bao cấp, văn hóa nghệ thuật được cởi mở, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV) đã tổ chức các cuộc thi Tiếng hát truyền hình tạo cơ hội cho nhiều ca sĩ trẻ thành danh như: Như Quỳnh, Như Hảo, Thanh Thúy, NSƯT Tạ Minh Tâm,...
Hội thi tiếng hát Hoa Phượng Đỏ dành cho lứa tuổi học sinh.
Tại miền Nam, nhiều bài hát từ các nước phương Tây được các ca sĩ trình bày lời ngoại ngữ và lời Việt (do Khúc Lan dịch): "Tình cha" (Phương Thảo)... Đặc biệt là phong trào hát nhạc Hoa lời Việt với các ca sĩ: Minh Thuận, Nhật Hào, Tú Châu, Lam Trường,...
Nhạc tình ca (còn gọi là nhạc sến do đa số viết theo điệu Bolero và có giai điệu buồn với nội dung chủ yếu là mô tả tâm trạng thất tình) được tiếp tục phát triển với các nhạc sĩ như: Vinh Sử, Hàn Châu... với các giọng ca: Đình Văn, Ngọc Sơn, Chế Thanh, Thùy Dương,...
Nhiều Trung tâm băng nhạc được thành lập như: Bến Thành AV, Sài Gòn Audio, Hãng Phim trẻ, Kim Lợi Studio, Trùng Dương AV...
Các nhạc sĩ của Sài Gòn sau 1975 định cư tại nước ngoài vẫn tiếp tục sáng tác và cùng với những nhạc sĩ trẻ hơn đã tạo nên dòng nhạc hải ngoại. Tại hải ngoại, cũng xuất hiện nhiều trung tâm phát hành băng đĩa nhạc như: Thúy Nga, Asia, Làng văn,... Nổi bật nhất là trung tâm Thuý Nga với loạt đĩa chủ đề "Paris By Night" được thực hiện nghiêm túc, giàn dựng công phu, mang nhiều giá trị nghệ thuật được giới yêu nhạc đánh giá cao.
Những nhạc sĩ tên tuổi đầu tiên rời Việt Nam khoảng cuối năm 1975. Trong những năm đầu, một chủ đề sáng tác chính của họ là nỗi nhớ quê hương và Sài Gòn như Nam Lộc với "Sài Gòn ơi! Vĩnh biệt"; "Khi xa Sài Gòn" (Lê Uyên Phương); "Đêm nhớ về Sài Gòn" (Trầm Tử Thiêng);... Chủ đề thân phận lưu vong cũng được nói đến với "Tị nạn ca" (Phạm Duy); "Người di tản buồn" (Nam Lộc); "Ai trở về xứ Việt" (Phan Văn Hưng); "Một chút quà cho quê hương" (Việt Dũng);... Một chủ đề phổ biến nữa là "phục quốc kháng chiến" nói lên mong muốn được quay trở lại miền Nam của ca sĩ Nguyệt Ánh.
Từ khoảng đầu thập kỷ 1980, một số nhạc sĩ sau thời gian cải tạo tại Việt Nam ra định cư ở nước ngoài. Họ viết nhiều ca khúc tả lại thời gian cải tạo ở Việt Nam như Hà Thúc Sinh với tập "Tiếng hát tủi nhục" năm 1982; Châu Đình An với "Những lời ca thép" năm 1982;... Phạm Duy cũng sáng tác 20 bài lấy tựa là "Ngục ca" phổ từ thơ của Nguyễn Chí Thiện trong tập thơ "Tiếng vọng từ đáy vực."
Tại hải ngoại, giữa thập niên 1980, các nhạc sĩ bắt đầu bỏ chủ đề "phục quốc kháng chiến" quay lại viết các bản tình ca. Ở giai đoạn này, những nhạc sĩ tiêu biểu có thể kể đến Đức Huy với "Và con tim đã vui trở lại, Đừng xa em đêm nay"; Trần Quảng Nam với "Mười năm tình cũ"; Hoàng Thanh Tâm với "Tháng sáu trời mưa"; Trúc Hồ với "Trái tim mùa đông"; Ngọc Trọng với "Buồn vương màu áo"; Trịnh Nam Sơn với "Dĩ vãng, Quên đi tình yêu cũ";... Ngô Thụy Miên tại hải ngoại cũng có nhiều sáng tác, trong đó nổi tiếng hơn cả là "Riêng một góc trời" viết năm 1997. Kể từ khi trong nước đổi mới, các ca sĩ và nhạc sĩ ở hải ngoại được về nước biểu diễn đã tạo nên sự giao thoa (trao đổi nghệ thuật) về âm nhạc giữa trong và ngoài nước, có nhiều ca khúc trong nước được các ca sĩ hải ngoại biểu diễn rất thành công và ngược lại. Nhiều ca sĩ trẻ nổi danh như: Lưu Bích, Như Quỳnh, Quang Lê, Trần Thái Hòa, Ngọc Hạ,...
Vào năm 1996 bắt nguồn từ giải thưởng âm nhạc Làn Sóng Xanh do Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. Người đoạt giải là ca sĩ Lam Trường với ca khúc "Tình thôi xót xa" (Bảo Chấn) khiến trào lưu nhạc trẻ ra đời với hàng loạt ca khúc thành công sau đó như: "Hà Nội mùa vắng những cơn mưa, Bên em là biển rộng, Giọt sương trên mí mắt, Hôn môi xa, Tình em ngọn nến,..." góp phần đưa hàng loạt ca sĩ trẻ nổi danh như: Mỹ Linh, Hồng Nhung, Thanh Lam, Thu Phương, Quang Linh, Quang Dũng, Lệ Quyên, Đàm Vĩnh Hưng, Mỹ Tâm, Tuấn Hưng, Phương Thanh, Thanh Thảo, Hiền Thục, Đan Trường, Cẩm Ly,...
Nhạc sĩ trẻ Hoài An đoạt giải thưởng từ cuộc thi sinh viên với bài hát "Tình thơ" với phần hòa âm mới lạ hiện đại lúc bấy giờ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc Việt Nam: phần nhạc dạo đầu bài hát và phần hòa âm phối khí được chú trọng hơn so với trước đây làm cho ca khúc Việt Nam trở nên hiện đại hơn, hay hơn.
Tại Việt Nam, đã xuất hiện nhiều nhạc sĩ hòa âm phối khí như: Quốc Dũng, Bảo Chấn, Sỹ Dan, Tùng Châu, Quốc Trung, Mạnh Trinh, Trần Thanh Tùng, Quang Phúc, Đức Trí, Hoài Sa, Lê Quang, Lý Huỳnh Long,... Nghề mix nhạc (DJ) cũng xuất hiện.
Bên cạnh đó dòng nhạc dân ca phát triển mạnh mẽ: "Vọng cổ buồn" (Minh Vy)", Đêm Gành Hào nghe điệu Hoài Lang" (Vũ Đức Sao Biển)", Quê em mùa nước lũ" (Tiến Luân)", Duyên phận" (Thái Thịnh),"..."
Vài ca sĩ Việt Nam có hoài bão vươn ra thị trường âm nhạc thế giới và đã đạt được một số thành công ban đầu: Mỹ Tâm được đài truyền hình ABC xếp hạng 6 trong số các ca sĩ châu Á thành công nhất, Hồ Quỳnh Hương đoạt giải Liên hoan âm nhạc tại Bình Nhưỡng.
Thành công với các ca khúc nhạc trẻ mà báo chí ngưỡng mộ, cái tên phát triển cho ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều khán giả trẻ, vào năm 2005,[cần dẫn nguồn] cái tên V-pop đã xuất hiện làm cho nhiều thần tượng và khán giả rất tò mò. Đặc biệt là sự nổi lên của làn sóng nhạc Hàn Quốc, nên nhiều ca sĩ đã bắt chước model của Hàn Quốc và các giai điệu âm nhạc của nó. Tuy nhiên V-pop vẫn chưa có các tác phẩm âm nhạc, nhạc sĩ và ca sĩ được đánh giá cao về chất lượng nghệ thuật có thể trường tồn qua sự đào thải của thời gian.
Đến năm 2017,[cần dẫn nguồn] dòng nhạc trẻ đã trở nên phổ biến toàn Việt Nam, ở YouTube, nhiều bài hát đã đạt được 100 triệu lượt xem, như "Lạc trôi" (Sơn Tùng M-TP), "Vợ người ta" (Phan Mạnh Quỳnh), "Bống bống bang bang" (365daband),...