Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Natri peiodat | |
---|---|
Danh pháp IUPAC | Natri peiodat |
Tên khác | Natri metapeiodat Natri iodat(VII) |
Nhận dạng | |
Số CAS | |
PubChem | |
Số EINECS | |
Số RTECS | SD4550000 |
Ảnh Jmol-3D | ảnh |
SMILES | đầy đủ
|
InChI | đầy đủ
|
Thuộc tính | |
Công thức phân tử | NaIO4 |
Khối lượng mol | 213,8906 g/mol |
Bề ngoài | chất rắn màu trắng |
Khối lượng riêng | 3,865 g/cm³ |
Điểm nóng chảy | 300 °C (573 K; 572 °F) |
Điểm sôi | |
Độ hòa tan trong nước | tan được |
Các nguy hiểm | |
Nguy hiểm chính | nguồn oxy hóa |
NFPA 704 |
|
Các hợp chất liên quan | |
Anion khác | Natri perchlorat Natri pebromat |
Cation khác | Kali peiodat |
Trừ khi có ghi chú khác, dữ liệu được cung cấp cho các vật liệu trong trạng thái tiêu chuẩn của chúng (ở 25 °C [77 °F], 100 kPa). |
Natri peiodat là muối natri của axit peiodic. Nó có thể liên quan đến hai muối khác nhau: natri metapeiodat (viết tắt là natri m-peiodat) có công thức NaIO4 và natri orthopeiodat (viết tắt là natri o-peiodat) có công thức Na5IO6. Cả hai muối này đều hữu dung trong hóa tổng hợp vì khả năng oxy hóa của ion peiodat.[1]
Khi đun nóng, nó phân hủy thành natri iodat (NaIO3) và khí oxy. Phản ứng phân hủy này có xúc tác là mangan(IV) oxit.
Thông thường natri metapeiodat được sản xuất phổ biến nhất dưới dạng natri đibipeiodat (Na3H2IO6),[2] nó được cách ly khỏi phản ứng oxi hoá của natri iodat với clo và natri hydroxide[3] và được kết tinh tốt nhất trong axit nitric. Hoặc một cách khác, đi từ natri iodide bị oxy hóa bằng brom và natri hydroxide:
Natri metapeiodat sau đó được tạo ra bằng cách khử natri đibipeiodat bằng axit nitric:[2]
Hiện đại hơn, sản xuất ở quy mô công nghiệp sử dụng phương pháp điện phân iodat, cực dương là PbO2. Phương trình điện phân như sau:
Natri peiodat được dùng để oxi hoá xenlulozơ và tạo ra các hợp chất dễ bị vi khuẩn phân hủy và thân thiện với môi trường. Các hợp chất này được dùng trong khâu phẫu thuật, như là giàn giáo cho cấu trúc tế bào.
Trong hóa hữu cơ, natri peiodat có thể được dùng trong dung dịch để mở vòng saccarit giữa hai nhóm hydroxyl (điol) lân cận để giải phóng hai nhóm andehit:[5]
Quá trình này thường được dùng trong các saccarit đánh dấu với các phân tử huỳnh quang như biotin. Bởi vì quá trình cần các nhóm điol lân cận, các ion periođat thường được dùng để đánh dấu có chọn lọc RNA (riboza có điol lân cận) thay vì DNA do đeoxiriboza không có điol lân cận.