U-389 (tàu ngầm Đức)

Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-389
Đặt hàng 21 tháng 11, 1940
Xưởng đóng tàu Howaldtswerke, Kiel
Số hiệu xưởng đóng tàu 20
Đặt lườn 3 tháng 12, 1941
Hạ thủy 19 tháng 12, 1942
Nhập biên chế 6 tháng 2, 1943
Tình trạng Bị máy bay ném bom B-24 Liberator Anh đánh chìm về phía Tây Nam Iceland, 4 tháng 10, 1943 [1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [2]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [2]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [2]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [2]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [2]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [2]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [2]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [2]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [2]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [2]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[1][3]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 50 300
Chỉ huy:
  • Đại úy Siegfried Heilmann
  • 6 tháng 2 – 4 tháng 10, 1943
Chiến dịch:
  • 1 chuyến tuần tra:
  • 18 tháng 9 – 4 tháng 10, 1943
Chiến thắng: Không

U-389 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế vào đầu năm 1943, nó chỉ thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất và không đánh chìm được mục tiêu nào, trước khi bị một máy bay ném bom B-24 Liberator thuộc Liên đội 269 Không quân Hoàng gia Anh đánh chìm về phía Tây Nam Iceland vào ngày 4 tháng 10, 1943.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-389 được đặt hàng vào ngày 21 tháng 11, 1940,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng HowaldtswerkeKiel vào ngày 3 tháng 12, 1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 19 tháng 12, 1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 6 tháng 2, 1943[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Siegfried Heilmann.[1]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 5, U-389 được điều sang Chi hạm đội U-boat 9 từ ngày 1 tháng 8, 1943 để hoạt động trên tuyến đầu.[1]

Chiếc tàu ngầm đã di chuyển từ Kiel đến cảng Bergen, và sau đó đến Trondheim cùng thuộc Na Uy, vào cuối tháng 8 và đầu tháng 9, 1943. Nó xuất phát từ Trondheim vào ngày 18 tháng 9 cho chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh. Nó băng qua khe GIUK giữa quần đảo FaroeIceland để vòng qua quần đảo Anh, và hoạt động trong vùng biển giữa Bắc Đại Tây Dương về phía Tây Nam Iceland.[5]

Đến ngày 4 tháng 10, ở vị trí về phía Đông Nam mũi Farewell, Greenland, chiếc tàu ngầm bị đánh chìm do trúng mìn sâu thả từ một máy bay ném bom B-24 Liberator thuộc Liên đội 269 Không quân Hoàng gia Anh (RAF). Chiếc tàu ngầm đắm tại tọa độ 60°51′B 28°26′T / 60,85°B 28,433°T / 60.850; -28.433, với tổn thất toàn bộ 50 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu.[1]

Một số nguồn trước đây cho rằng U-389 bị đánh chìm trong eo biển Đan Mạch về phía Tây Nam Iceland vào ngày 5 tháng 10, bởi một máy bay ném bom Lockheed Hudson thuộc Liên đội 269 RAF, tại tọa độ 62°43′B 27°17′T / 62,717°B 27,283°T / 62.717; -27.283, Cuộc tấn công này thực ra đã đánh chìm tàu ngầm U-336.[1]

"Bầy sói" tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

U-389 từng tham gia một bầy sói:

  • Rossbach (24 tháng 9 – 4 tháng 10, 1943)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-389”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2025.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2025.
  3. ^ Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-389”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2025.
  4. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  5. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-389 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2025.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-389”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2025.
  • Hofmann, Markus. “U 389”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2025.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nguồn gốc của mâu thuẫn lịch sử giữa hồi giáo, do thái và thiên chúa giáo
Nguồn gốc của mâu thuẫn lịch sử giữa hồi giáo, do thái và thiên chúa giáo
Mâu thuẫn giữa Trung Đông Hồi Giáo, Israel Do Thái giáo và Phương Tây Thiên Chúa Giáo là một mâu thuẫn tính bằng thiên niên kỷ và bao trùm mọi mặt của đời sống
Đường nhỏ hóa mèo - Albedo x Sucrose
Đường nhỏ hóa mèo - Albedo x Sucrose
Albedo vuốt đôi tai nhỏ nhắn, hôn lên sống mũi nàng mèo thật nhẹ. Cô thế này có vẻ dễ vỡ
Paimon không phải là Unknown God
Paimon không phải là Unknown God
Ngụy thiên và ánh trăng dĩ khuất
Đại cương về sát thương trong Genshin Impact
Đại cương về sát thương trong Genshin Impact
Các bạn có bao giờ đặt câu hỏi tại sao Xiangling 4 sao với 1300 damg có thể gây tới 7k4 damg lửa từ gấu Gouba