Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây[1]:
Các quyền quyết định
Quyết định luân chuyển, điều động, biệt phái Thẩm phán, trừ Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách theo quy định; quy định cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị thuộc bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân theo quy định.
Quyết định phân bổ biên chế, số lượng Thẩm phán, ngân sách chi cho hoạt động của các Tòa án nhân dân; quy định biên chế của các Tòa án quân sự sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao.
Các quyền tổ chức:
Tổ chức kiểm tra việc thực hiện biên chế, quản lý cán bộ, quản lý và sử dụng ngân sách, cơ sở vật chất của Tòa án nhân dân.
Tổ chức công tác đào tạo; bồi dưỡng Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác của Tòa án nhân dân.
Tổ chức công tác xét xử của Tòa án nhân dân tối cao; chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án nhân dân theo quy định của luật tố tụng.
Trách nhiệm:
Chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước; trả lời chất vấn, kiến nghị của đại biểu Quốc hội.
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng; giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
Các quyền chỉ đạo:
Chỉ đạo việc tổng kết thực tiễn xét xử, xây dựng và ban hành Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; tổng kết phát triển án lệ, công bố án lệ.
Trong giai đoạn này hệ thống tư pháp của Việt Nam vẫn mang tính chất thiên về quân sự, không thiết lập chức vụ Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Ngay sau khi thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hệ thống Tòa án có hai loại: Toà án Quân sự với nhiệm vụ xét xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập và Tòa án đặc biệt xét xử những nhân viên của các Uỷ ban nhân dân hay các cơ quan của Chính phủ do ban Thanh tra truy tố. Chủ tịch Chính phủ lâm thời làm Chánh án Tòa án đặc biệt và Bộ trưởng Tư pháp làm Hội thẩm.
Trong thời kỳ sau từ những năm 1946-1950 hệ thống tư pháp thiết lập 3 hệ thống tòa án: Tòa án thường, Tòa án binh và Tòa án Quân sự. Tòa án thường được phân theo cấp thứ tự chứ không phân theo khu vực địa hạt, Tòa sơ cấp, Tòa đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm.
Năm 1950 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cải cách hệ thống tư pháp, trong giai đoạn từ 1950-1958 đã thiết lập hệ thống tòa án nhân dân các cấp, nhưng chưa thiết lập tòa án nhân dân tối cao.
Sau khi cải cách hệ thống tư pháp năm 1959 Tòa án nhân dân tối cao được thành lập với người đứng đầu là Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao và chính thức được đưa vào Hiến pháp năm 1959[6].
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có quyền hạn giải quyết các vấn đề quan trọng của Tòa án nhân dân Tối cao. Tới năm 1980 thì quyền hạn được tăng lên như hiện nay.
Danh sách Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao Việt Nam