Bài viết hoặc đoạn này cần được wiki hóa để đáp ứng tiêu chuẩn quy cách định dạng và văn phong của Wikipedia. (tháng 10/2024) |
Tòa án nhân dân Tối cao | |
---|---|
Thành lập | 13/9/1945 |
Quốc gia | Việt Nam |
Vị trí | 48 phố Lý Thường Kiệt - phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội |
Ủy quyền bởi | Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quốc hội Việt Nam |
Nhiệm kỳ thẩm phán | 5 năm Từ năm 2025: 5 năm (nhiệm kỳ đầu tiên), trọn đời (nhiệm kỳ thứ hai)[1] |
Số lượng thẩm phán | 14 |
Trang mạng | www |
Chánh án | |
Đương nhiệm | Lê Minh Trí |
Từ | 26 tháng 8 năm 2024 |
Bài này nằm trong loạt bài về: Chính trị và chính phủ Việt Nam |
Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của Việt Nam.
Tòa án nhân dân tối cao có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
Tòa án nhân dân tối cao gồm:[2]
Tòa án nhân dân tối cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, công chức khác, viên chức và người lao động.
Bộ máy giúp việc của Toà án nhân dân tối cao gồm những cơ quan sau:
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm.
Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Nhiệm kỳ của Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là 5 năm.
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi được Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là 5 năm, nếu tái bổ nhiệm là 10 năm.
Theo Hiến pháp Việt Nam và theo các quy định về xét xử, các cuộc xét xử của Tòa án nhân dân Tối cao công khai, độc lập, không lệ thuộc vào chính quyền, và chỉ tuân theo pháp luật. Cách thức xét xử tập thể, có hội thẩm Nhân dân tham gia, quyết định theo đa số.[3]
Tòa án nhân dân tối cao phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật; người tham gia tố tụng có quyền tự bào chữa và mời luật sư bào chữa, có quyền được dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình.
Theo ông Nguyễn Văn Hiện, cựu Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao: "Để đảm bảo chất lượng công tác xét xử, cần phải có 5 điều kiện: người tiến hành tố tụng tốt; hệ thống pháp luật tốt; người tham gia tố tụng tốt; hệ thống các cơ quan hỗ trợ tư pháp tốt; và thực hiện tốt nguyên tắc độc lập tư pháp, tuân theo pháp luật".
Ngày 13 tháng 9 năm 1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh thiết lập các Toà án quân sự. Theo Điều 1 của Sắc lệnh này thì sẽ thiết lập các Toà án quân sự gồm:
Uỷ ban nhân dân Trung bộ và Nam bộ, trong địa hạt hai bộ ấy, có thể đề đạt lên Chính phủ xin mở thêm Toà án quân sự ở những nơi trọng yếu khác. Về thẩm quyền xét xử, Toà án quân sự xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trừ trường hợp phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật (Điều 2).
Trong cuộc cải cách Tư pháp năm 1950, Chính phủ ra Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 quy định:
- Thành phần nhân dân được đa số trong việc xét xử: Để xét xử việc hình và hộ, Tòa án nhân dân huyện và tỉnh gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Tòa Phúc thẩm gồm hai Thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân có quyền xem hồ sơ và biểu quyết.
- Thành lập hội đồng hoá giải tại mỗi huyện nhằm mục đích giao cho nhân dân trực tiếp phụ trách việc hoá giải tất cả các việc hộ kể cả việc ly dị mà từ trước tới nay chỉ có Chánh án Tòa án tỉnh mới có thẩm quyền. Biên bản hòa giải thành có chấp hành lực. Đây là một điểm tiến bộ so với thế hệ cũ. Khi các đương sự đã thoả thuận trước hội đồng hoá giải thì việc hòa giải được đem thi hành ngay.
- Áo chùng đen của Thẩm phán và luật sư nay bỏ đi.
- Tăng thẩm quyền cho ban tư pháp xã về việc phạt vi cảnh để làm cho một số việc ít quan trọng về mặt trị an sẽ được giải quyết mau chóng ngay tại xã.
- Giao cho các Tòa án nhân dân huyện quyền ấn định các phương pháp bảo thủ, dù việc xử kiện không thuộc thẩm quyền Tòa án nhân dân huyện để tránh cho đương sự khỏi phải tốn phí đi lên Tòa án tỉnh và những việc cấp bách có thể được giải quyết mau chóng hơn.
- Trái với quan niệm cũ cho rằng việc hộ thường chỉ có lợi hoặc có hại riêng cho tư nhân mà xã hội không cần can thiệp đến, thì nay công tố viên có quyền kháng cáo các án hộ nếu xét ra cần thiết.
- Theo Sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 4 năm 1946, biện lý bắt buộc phải đưa sang phòng dự thẩm để thẩm cứu một số việc hình dù rằng xét ra không cần thiết. Nay biện lý chỉ giao sang phòng dự thẩm khi xét thật cần thiết mà thôi.
- Trước đây mỗi khi thủ tục tố tụng không được theo đúng thì bị tiêu hủy dù không có hại cho việc thẩm cứu, hoặc cho quyền lợi của đương sự. Nay coi điều đó là quá câu nệ về hình thức không còn hợp thời nữa.
- Từ nay người bị thiệt hại về một vụ phạm pháp có thể xin kháng cáo không những để tăng tiền bồi thường mà còn để tăng hình phạt nữa.
- Việc chấp hành án nay giao cho Thẩm phán huyện phụ trách.
Hội đồng Thẩm phán đương nhiệm gồm 15 thành viên:[6][7]
Nguyên Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Văn An[8] năm 2010 nhận xét rằng Việt Nam hiện đang mắc lỗi hệ thống. Tòa án là nhánh yếu nhất trong ba cơ quan quyền lực nhà nước. Mặc dù "Hiến pháp và Pháp luật đã ghi rất rõ: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật là tối thượng. Song trong thực tiễn thì không ít trường hợp chỉ thị, nghị quyết của Đảng mới là tối thượng". Điều này trái với nguyên tắc Tam quyền phân lập, tức hành pháp, tư pháp và lập pháp là bình đẳng và giám sát lẫn nhau.
Ngày 17 tháng 3 năm 2022, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định 182/QĐ-TANDTC về Kế hoạch triển khai thực hiện trong Tòa án nhân dân phong trào thi đua "Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau" giai đoạn 2021-2025.
Ngày 28 tháng 7 năm 2022, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định 194/QĐ-TANDTC về việc phân công nhiệm vụ các thành viên Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Hội thao Tòa án nhân dân lần thứ IV năm 2022.
Ngày 01/08/2022, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn 150/TANDTC-TH về việc quán triệt thực hiện Quy chế về chế độ quản lý hồ sơ vụ án và công tác lưu trữ trong hệ thống Tòa án nhân dân.
|ngày lưu trữ=
và |archive-date=
(trợ giúp)